Số liệu thống kê sơ bộ từ TCHQ cho biết, 11 tháng đầu năm nay, cả nước đã thu về 206,9 triệu USD từ xuất khẩu mặt hàng mây, tre, cói thảm, tăng 8,18% so với cùng kỳ năm 2012. Tính riêng tháng 11/2013, xuất khẩu mặt hàng này lại giảm về kim ngạch so với tháng liền kề trước đó, giảm 10,5%, kim ngạch trên 20 triệu USD.

Thị trường chính nhập khẩu mặt hàng mây, tre, cói thảm trong thời gian này là Hoa Kỳ, chiếm 22,9% thị phần, đạt kim ngạch 47,4 triệu USD, tăng 28,11% so với 11 tháng 2012. Thị trường chủ yếu thứ hai đứng sau Hoa Kỳ là Nhật Bản, đạt kim ngạch 35,8 triệu USD, tăng 12,17% so với cùng kỳ.

Tuy đứng thứ ba về kim ngạch xuất khẩu trong 11 tháng đầu năm, nhưng xuất khẩu sang thị trường Đức lại giảm về kim ngạch, giảm 17,5%, với kim ngạch 21,1 triệu USD.

Nhìn chung 11 tháng 2013, xuất khẩu mây tre cói, thảm sang các thị trường đều tăng trưởng về kim ngạch, số thị trường giảm kim ngạch chỉ chiếm 29,4%.

Đáng chú ý, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này sang thị trường Thụy Điển chỉ đạt trên 3 triệu USD, nhưng tốc độ tăng trưởng lại tăng mạnh, tăng 33,82% so với cùng kỳ năm trước.

Thống kê sơ bộ TCHQ về thị trường xuất khẩu mây, tre, cói thảm 11 tháng 2013 – ĐVT: USD

 
KNXK 11T/2013
KNXK 11T/2012
Tốc độ tăng trưởng (%)
Tổng KN
206.903.571
191.258.112
8,18
Hoa Kỳ
47.466.808
37.051.616
28,11
Nhật Bản
35.830.516
31.944.434
12,17
Đức
21.160.325
25.648.829
-17,50
Oxtrâylia
8.949.793
9.323.286
-4,01
Nga
8.487.681
7.894.730
7,51
Anh
7.813.232
6.518.078
19,87
Hàn Quốc
6.959.264
5.594.018
24,41
Pháp
6.951.841
6.577.292
5,69
Đài Loan
6.567.472
6.305.192
4,16
Tây Ban Nha
4.986.105
4.537.468
9,89
Canada
4.549.063
3.758.060
21,05
Italia
3.843.307
4.035.795
-4,77
Hà Lan
3.592.130
3.335.494
7,69
Ba Lan
3.564.886
3.753.008
-5,01
Bỉ
3.120.072
3.699.623
-15,67
Thuỵ Điển
3.069.208
2.293.599
33,82
Đan Mạch
1.745.285
1.531.672
13,95

Khi bàn về giải pháp thúc đẩy phát triển sản phẩm xuất khẩu ngành mây tre đan Việt Nam, các chuyên gia gia, nhà quản lý trong ngành nông nghiệp nhận định, chỉ cần có được thị phần 8-10% của thị trường thế giới thì ngành chế biến mây tre Việt Nam có thể đạt được giá trị tới 1 tỷ USD trong tương lai.

Theo Vụ sử dụng rừng (Tổng cục Lâm nghiệp - Bộ NN&PTNT), tre nứa, song mây là một trong số những sản phẩm lâm sản ngoài gỗ (LSNG) có giá trị thương mại nhất. Dự kiến mây tre là một trong những loài cây chủ lực trong xuất khẩu LSNG, góp phần giảm nghèo và phát triển kinh tế nông thôn ở Việt Nam trong giai đoạn tới.

Tỷ trọng giá trị sản xuất lâm sản ngoài gỗ (LSNG) (trong đó có mây, tre) chiếm khoảng 53%. Hiện nay, ước tính giá trị sản xuất LSNG chỉ chiếm từ 20-25% giá trị sản xuất lâm nghiệp hàng năm. Từ năm 2000 đến nay, kim ngạnh xuất khẩu hàng hoá LSNG với tốc độ tăng trưởng khá cao từ 15% đến 25% hàng năm, góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá lâm sản.

Trong đó một trong những sản phẩm LSNG có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân là tre, nứa cung cấp cho công nghiệp giấy, làm nguyên liệu sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ và hàng tiêu dùng; mây, song là nguyên liệu để sản xuất đồ gia dụng, bàn ghế, sản phẩm mỹ nghệ.

Cục trưởng Cục Chế biến, Thương mại nông lâm thủy sản và nghề muối (Bộ NN&PTNT) cho biết, ngành tiểu thủ công nghiệp này thu hút một lực lượng lao động đông đảo, khoảng 350 ngàn người. Sản phẩm không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà đã được xuất khẩu tới trên 120 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới với kim ngạch xuất khẩu đạt trung bình 200 triệu USD trong mấy năm gần đây.

Tuy nhiên, thị phần xuất khẩu ra thế giới của mây tre Việt Nam hiện vẫn còn rất nhỏ, chỉ chiếm chưa đến 3% của thị trường thế giới.

Nói về tiềm năng phát triển của mây tre đan Việt Nam, Cục trưởng Cục Chế biến, Thương mại nông lâm thủy sản và nghề muối (Bộ NN&PTNT) cũng hy vọng, các sản phẩm tre chế biến công nghiệp sẽ nhanh chóng chiếm ưu thế trong cơ cấu sản phẩm chế biến, để có thể đưa kim ngạch xuất khẩu của các sản phẩm mây, tre hàng năm lên mức 500-700 triệu USD trong tương lai không xa.

Để phát triển sản xuất và kinh doanh xuất khẩu mây tre bền vững, chiếm 8 - 10% thị phần của thị trường thế giới, các chuyên gia đều cho rằng, trước hết Nhà nước định hướng tập trung vào phát triển nguồn nhân lực của ngành.

Lực lượng tham gia sản xuất hàng mây tre đan chủ yếu là lao động thủ công tại các làng nghề, tham gia sản xuất trong thời gian nông nhàn và thu hút một số lượng lớn lao động thủ công.  Vì vậy, cần tăng cường đào tạo nghề, xây dựng đội ngũ nghệ nhân, hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng vùng nguyên liệu, đặc biệt là phát triển các vùng nguyên liệu tập trung đủ sức cung cấp nguyên liệu ổn định cho sản xuất, xuất khẩu.

Các công ty cũng cần tự xây dựng chính sách và chiến lược thị trường sản phẩm mây tre đan. Đẩy mạnh các hoạt động tiếp thị, chủ động tìm hiểu thị trường nhập khẩu từ đó đa dạng hóa sản phẩm phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng.

Cần nghiên cứu để đưa ra các chính sách tiêu thụ sản phẩm từ các làng nghề truyền thống; xúc tiến quảng bá sản phẩm mây tre cần được thực hiện một cách tích cực trên cơ sở hình thành trang chủ về các sản phẩm mây tre thông qua các Hiệp hội ngành hàng liên quan.

(Nguồn: Vinanet, Thời báo tài chính online)

Nguồn: Vinanet