Theo đó, kinh phí ngân sách Nhà nước hỗ trợ tư vấn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa thông qua đơn vị hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (là các đơn vị thuộc Bộ, cơ quan ngang bộ có mạng lưới tư vấn viên hoặc đơn vị thuộc UBND cấp tỉnh được giao nhiệm vụ triển khai hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa theo chức năng, nhiệm vụ quản lý ngành, lĩnh vực được phân công).

Khi sử dụng dịch vụ tư vấn thuộc mạng lưới tư vấn viên thì doanh nghiệp nhỏ và vừa được Nhà nước hỗ trợ với mức: 100% giá trị hợp đồng tư vấn nhưng không quá 03 triệu đồng/năm nếu là doanh nghiệp siêu nhỏ; 30% giá trị hợp đồng tư vấn nhưng không quá 05 triệu đồng/năm nếu là doanh nghiệp nhỏ; 10% giá trị hợp đồng tư vấn nhưng không quá 10 triệu đồng/năm nếu là doanh nghiệp vừa; Miễn hoặc giảm phí tư vấn theo từng vụ việc nếu doanh nghiệp nhỏ và vừa chuyển đổi từ hộ kinh doanh, doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo, tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị.
Nếu trong năm doanh nghiệp nhỏ và vừa đã sử dụng dịch vụ này và được hỗ trợ nhưng giá trị hỗ trợ chưa quá mức nêu trên thì cũng chỉ được hỗ trợ phần còn lại.
Trường hợp có sự điều chỉnh về giá trị hợp đồng tư vấn dẫn đến thấp hơn số tiền theo quyết định hỗ trợ hoặc vượt quá tỷ lệ quy định thì doanh nghiệp nhỏ và vừa báo cáo đơn vị hỗ trợ để xác định lại số tiền theo giá trị hợp đồng tư vấn đã điều chỉnh, đảm bảo tỷ lệ hỗ trợ theo đúng tiêu chuẩn…
Đơn vị hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa không được sử dụng kinh phí ngân sách Nhà nước hỗ trợ tư vấn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa để chi cho hoạt động bộ máy, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, chi khác ngoài chi hỗ trợ tư vấn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Vào thời điểm lập dự toán ngân sách Nhà nước hàng năm, các đơn vị hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa xây dựng kế hoạch và dự toán kinh phí thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ tư vấn doanh nghiệp nhỏ và vừa của năm kế hoạch, gửi đơn vị đầu mối tổng hợp.
Cụ thể, Bộ, cơ quan ngang bộ, UBND cấp tỉnh gửi tổng hợp kế hoạch và dự toán ngân sách Nhà nước cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư trước ngày 20/7 để tổng hợp chung trên phạm vi toàn quốc.
Thông tư này có hiệu lực từ ngày 10/10/2019.
Ngoài việc hướng dẫn Nghị định 39/2018/NĐ-CP, Thông tư này còn dẫn chiếu tới Thông tư 06/2019/TT-BKHĐT.
Xem chi tiết Thông tư 54/2019/TT-BTC tại đây.