Chỉ số chứng khoán Châu Âu lao dốc; chỉ số S&P500 giảm 7% ngay khi vừa mở cửa buộc Phố Wall phải tạm dừng giao dịch 15 phút giống như 10 năm trước khi khủng hoảng tài chính; lợi suất trái phiếu Mỹ kỳ hạn 10 năm giảm xuống chỉ 0,318%; lợi suất trái phiếu chính phủ Đức xuống tháp kỷ lục; còn vàng lao vọt lên 1.700 USD/ounce lần đầu tiên kể từ 2012 và tăng tổng cộng hơn 10% kể từ đầu năm đến nay.
Trên thị trường năng lượng, giá dầu mất gần 1/3 trong ngày 9/3, mức giảm lớn nhất kể từ chiến tranh vùng Vịnh 1991. Cụ thể, dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) và dầu Brent sáng 9/3 đều giảm 14 USD/thùng xuống lần lượt 31,02 USD/thùng và 27,34 USD/thùng. Cả hai loại dầu đã hồi phục sau đó, nhưng vẫn mất 25% vào lúc đóng cửa so với cùng thời điểm của hôm trước sau một phiên giao dịch đầy biến động. Đây là mức giảm mạnh nhất trong ngày kể từ 1999 – khi bắt đầu Cuộc chiến Vùng Vịnh lần thứ nhất. Kết thúc phiên giao dịch, dầu Brent giảm 10,91 USD xuống 34,36 USD/thùng, trong khi dầu WTI giảm 10,15 USD xuống 31,13 USD/thùng.
Nga - quốc gia sản xuất dầu lớn thứ 2 toàn cầu - đã từ chối cắt giảm thêm sản lượng theo đề nghị của Tổ chức các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC). Động thái này đã khiến Saudi Arabia quyết định không theo đuổi mục tiêu cắt giảm sản lượng dầu thêm nữa, mà sẽ nâng sản lượng của mình lên mức cao kỷ lục trong tháng 4 tới. Saudi Arabia tuyên bố sẽ giảm giá dầu trong đợt giao hàng tháng 4/2020 ở mức 4-6 USD/thùng cho Châu Á và 7 USD/thùng cho Mỹ. Ngoài ra, Tập đoàn dầu khí quốc gia Saudi Aramco sẽ bán dầu Arabian Light với mức giá chưa từng có: 10,25 USD/thùng, theo Bloomberg. Saudi Arabia là một trong những quốc gia xuất khẩu dầu mỏ hàng đầu thế giới.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng có lúc đạt đỉnh 1.700 USD/ounce, nhưng đã giảm trở lại vào cuối phiên do hoạt động bán ra chốt lời của giới đầu tư.
Cuối phiên giao dịch, vàng giao ngay giảm 0,1% xuống 1.672,32 USD/ounce, vàng kỳ hạn tháng 4/2020 tăng 0,2% lên 1.675,7 USD/ounce.
Lúc đầu phiên giao dịch, vàng đã tăng tới 1,7% và đạt mức cao nhất kể từ tháng 12/2012 là 1.702,56 USD/ounce. Tuy nhiên, nhà đầu tư đã nhanh chóng bán ra ngay sau đó, có thể để tránh mất mát giữa bối cảnh thị trường đang biến động quá mạnh.
Chuyên gia Jonathan Butler của Mitsubishi cho rằng sự sụt giảm giá ở cuối phiên một phần có thể là do những thiệt hại khi đầu tư vào các loại hàng hóa khác, khiến giới đầu tư bán vàng để bù lỗ. Phiên này, các chỉ số chính trên Phố Wall giảm khoảng 5%, trong khi giá dầu giảm 1/3, mức giảm trong ngày lớn nhất kể từ Chiến tranh vùng Vịnh năm 1991. Sự chú ý của giới đầu tư sắp tới sẽ hướng về cuộc họp của Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) vào ngày 12/3 và Cục Dự trữ Liên bang Mỹ vào ngày 17-18/3.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giảm 1,9% xuống còn 16,98 USD/ounce, trong khi giá bạch kim giảm 4,3% và được giao dịch ở mức 861,74 USD/ounce.
Đặc biệt, giá palađi để mất 8% ngay đầu phiên vừa qua khi thị trường hàng hóa nguyên liệu toàn cầu hoảng loạn. Ở thời điểm đó, giá chỉ 2.352 USD/ sau khi nhà đầu tư đồn doán nhu cầu đối với toàn bộ các kim loại công nghiệp sẽ bị điều chỉnh do virus corona, bởi Trung Quốc là thị trường palađi lớn nhất thế giới. Kết thúc phiên, giá hồi phục nhẹ, nhưng so với lúc đóng cửa ngày 6/3 thì giá vẫn thấp hơn 2,9%, chỉ đạt 2.491,15 USD/ounce.
Trên thi trường kim loại công nghiệp, giá kim loại đồng đã giảm xuống mức thấp nhất trong vòng hơn 3 năm sau khi giá dầu giảm mạnh, nhưng được hỗ trợ phần nào bởi nhà đầu tư kỳ vọng vào việc Trung Quốc sẽ tăng cường kích thích kinh tế. Đồng kỳ hạn 3 tháng trên sàn London có lúc giảm 3,1% xuống 5.433 USD/tấn, thấp nhất kể từ tháng 12/2016, nhưng đã hồi phục sau đó và kết thúc phiên giao dịch chỉ còn giảm 1,3% xuống 5.535 USD/tấn.
Giá sắt thép tại Trung Quốc giảm mạnh do thị trường hoảng loạn sau các thông tin về sự lây lan của dịch Covid-19, giá dầu thô lao dốc và các thị trường tài chính hoang mang.
Quặng sắt trên sàn Đại Liên giảm 2,7% xuống 640 CNY (92,13 USD)/tấn vào lúc đóng cửa giao dịch, sau khi đầu phiên giảm 5,8%; quặng sắt trên sàn Singapore buổi sáng cùng ngày cũng giảm 4,4%, nhưng kết thúc ngày ở mức giảm 1,7%.
Thị trường sắt thép có thêm mối lo khi công ty Baosteel thuộc tập đoàn sản xuất thép lớn nhất Trung Quốc là Baowu Steel Group thông báo đã xảy ra một vụ hỏa hoạn ở một lò cao. Tuy nhiên, Baosteel đã trấn an dư luận rằng sự cố xảy ra vào ngày 8/3 sẽ chỉ tác động ở mức hạn chế đối với việc nung sắt nóng chảy trong năm nay.
Trên thị trường nông sản, giá đường giảm mạnh theo xu hướng giá dầu. Kết thúc phiên vừa qua, đường thô kỳ hạn tháng 5 giảm 41 US cent, tương đương 3,1%, xuống 12,61 US cent/lb vào cuối phiên, sau khi có thời điểm chạm mức thấp nhất trong vòng hơn 4 tháng là 12,18 US cent/lb. Đường trắng lúc cuối phiên cũng giảm 14,7 USD (4,0%) xuống 355,6 USD/tấn, nhưng mức đó đã là hồi phục nhẹ so với thời điểm chạm mức thấp nhất 3 tháng là 348,10 USD/tấn.
Trái với đường, giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 5/2020 tăng 1,8 US cent (1,7%) trong phiên vừa qua, lên 1,092 USD/lb, sau khi có lúc chạm mức thấp nhất hơn 1 tháng là 1,0255 USD/lb; robusta cũng tăng 2 USD (0,2%) lên 1.247 USD/tấn. Các nhà đầu tư đang có xu hướng bán các hợp đồng kỳ hạn gần để mua hợp đồng kỳ hạn xa hơn.
Giá cao su trên sàn Tokyo đã giảm trên 6% trong phiên vừa qua, là ngày giảm nhiều nhất trong vòng hơn 2 năm, do lo ngại kinh tế toàn cầu sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi dịch Covid-19, và giá dầu lao dốc gây hoảng loạn các thị trường tài chính toàn cầu.
Kết thúc phiên giao dịch, cao su kỳ hạn tháng 8/2020 trên sàn TOCOM giảm 10,5 JPY (6,2%) xuống 157,8 JPY (1,55 USD)kg, trong phiên có lúc xuống thấp nhất kể từ 8/10/2019 là 156,5 JPY. Đây là phiên giá mất nhiều nhất kể từ 23/3/2018.
Trên sàn Thượng Hải, cao su cũng giảm giá mạnh, với hợp đồng kỳ hạn tháng 5/2020 giảm 645 CNY xuống 10.290 CNY (1.482 USD)/tấn vào cuối phiên, trước đó lúc đầu phiên có lúc chỉ 10.165 CNY, thấp nhất kể từ 3/8/2018.
Chỉ số chứng khoán Nikkei của Nhật đã trượt xuống mức thấp nhất 14 tháng do lo ngại dịch bệnh lan rộng có thể làm gián đoạn tăng trưởng kinh tế toàn cầu.
Nhập khẩu cao su của Trung Quốc trong 2 tháng đầu năm 2020 tăng 6,7% so với cùng kỳ năm ngoái.

Giá hàng hóa thế giới sáng 10/3 (giờ VN)

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

32,04

+0,91

+2,92%

Dầu Brent

USD/thùng

34,36

-10,91

-24,10%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

23.000,00

+1.240,00

+5,70%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

1,82

+0,04

+2,19%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

117,91

+4,22

+3,71%

Dầu đốt

US cent/gallon

119,70

+3,41

+2,93%

Dầu khí

USD/tấn

359,25

-54,00

-13,07%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

38.840,00

+1.580,00

+4,24%

Vàng New York

USD/ounce

1.669,50

-6,20

-0,37%

Vàng TOCOM

JPY/g

5.492,00

-4,00

-0,07%

Bạc New York

USD/ounce

16,92

-0,13

-0,79%

Bạc TOCOM

JPY/g

56,00

+1,00

+1,82%

Bạch kim

USD/ounce

869,76

+4,58

+0,53%

Palađi

USD/ounce

2.501,30

+2,89

+0,12%

Đồng New York

US cent/lb

250,85

-0,20

-0,08%

Đồng LME

USD/tấn

5.607,00

-67,00

-1,18%

Nhôm LME

USD/tấn

1.685,00

-35,00

-2,03%

Kẽm LME

USD/tấn

1.984,00

-27,00

-1,34%

Thiếc LME

USD/tấn

16.875,00

-150,00

-0,88%

Ngô

US cent/bushel

376,00

+3,25

+0,87%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

521,75

+3,00

+0,58%

Lúa mạch

US cent/bushel

269,75

+2,25

+0,84%

Gạo thô

USD/cwt

12,72

-0,02

-0,16%

Đậu tương

US cent/bushel

880,00

+10,00

+1,15%

Khô đậu tương

USD/tấn

302,00

+1,60

+0,53%

Dầu đậu tương

US cent/lb

28,13

+0,59

+2,14%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

457,00

+1,70

+0,37%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.545,00

-16,00

-0,62%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

109,20

+1,80

+1,68%

Đường thô

US cent/lb

12,61

-0,41

-3,15%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

94,05

-2,65

-2,74%

Bông

US cent/lb

62,01

+0,80

+1,31%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

356,70

-27,00

-7,04%

Cao su TOCOM

JPY/kg

164,10

+6,30

+3,99%

Ethanol CME

USD/gallon

1,21

-0,03

-2,50%

 

Nguồn: VITIC/ Reuters, Bloomberg