Năng lượng: Giá dầu giảm hơn 2 USD/thùng nhờ triển vọng đàm phán hòa bình ở Trung Đông thành công giúp giảm rủi ro nguồn cung, trong khi nền kinh tế Trung Quốc - nước nhập khẩu dầu hàng đầu thế giới - suy yếu hạn chế nhu cầu dầu.
Kết thúc phiên, giá dầu Brent giảm 2,02 USD, tương đương 2,5%, xuống 77,66 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 2,28 USD, tương đương 3%, xuống 74,37 USD/thùng.
Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Antony Blinken hôm thứ Hai cho biết nỗ lực ngoại giao mới nhất của Washington nhằm đạt được thỏa thuận ngừng bắn ở dải Gaza "có lẽ là cơ hội tốt nhất, có thể là cơ hội cuối cùng" và kêu gọi tất cả các bên liên quan đưa thỏa thuận này về đích.
Văn phòng của Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu cho biết ông "tái khẳng định cam kết của Israel đối với đề xuất mới nhất của Mỹ liên quan đến việc thả các con tin của chúng tôi - có tính đến nhu cầu an ninh của Israel".
Các vấn đề kinh tế của Trung Quốc cũng gây áp lực lên giá dầu, với dữ liệu tuần trước cho thấy giá nhà mới giảm với tốc độ nhanh nhất trong chín năm. Các nhà máy lọc dầu của Trung Quốc đã cắt giảm mạnh tỷ lệ chế biến dầu thô trong tháng 7 để ứng phó với nhu cầu nhiên liệu yếu.
Giá cả 2 loại dầu đều giảm gần 2% vào thứ Sáu tuần trước, khi các nhà đầu tư hạ thấp kỳ vọng về tăng trưởng nhu cầu của Trung Quốc, nhưng kết thúc tuần hầu như không thay đổi sau khi dữ liệu của Mỹ cho thấy lạm phát đang giảm mặc dù chi tiêu bán lẻ mạnh mẽ.
"Những lo ngại dai dẳng về nhu cầu chậm ở Trung Quốc đã dẫn đến đợt bán tháo", Hiroyuki Kikukawa, chủ tịch của NS Trading cho biết, đồng thời nói thêm rằng mùa lái xe cao điểm ở Mỹ sắp kết thúc là một yếu tố khác gây áp lực lên giá.
Tuy nhiên, ông cho biết, rủi ro về nguồn cung từ căng thẳng liên tục ở Trung Đông và leo thang chiến tranh Nga-Ukraine đang hỗ trợ thị trường.
Kim loại quý: Giá vàng giảm nhẹ nhưng vẫn trên ngưỡng 2.500 USD/ounce do các nhà đầu tư bán ra chốt lời và chờ thêm tín hiệu từ Cục Dự trữ Liên bang Mỹ cũng như diễn biến tại Trung Đông.
Kết thúc phiên, giá vàng giao ngay giảm 0,2% xuống 2.501,74 USD/ounce, sau khi đạt mức cao kỷ lục 2.509,65 USD/ounce trong phiên liền trước; vàng giao sau tăng 0,1% lên 2.541,3 USD/ounce.
Giá bạc phiên này tăng 0,8% lên 29,24 USD/ounce; bạch kim tăng 0,3% lên 957,57 USD, trong khi palladium giảm 2,1% xuống 930,92 USD/ounce.
"Chúng tôi sẽ không ngạc nhiên khi giá vàng giảm vì các nhà giao dịch có thể thất vọng nếu Fed chỉ cho biết khả năng cắt giảm lãi suất 0,25 điểm cơ bản và không ám chỉ khả năng cắt giảm nhiều hơn 0,50 điểm cơ bản", David Meger, giám đốc đầu tư thay thế và giao dịch tại High Ridge Futures, cho biết.
Theo công cụ FedWatch của CME, các nhà giao dịch thấy có 77,5% khả năng Fed sẽ cắt giảm lãi suất 25 điểm cơ bản trong kỳ họp tháng 9. Trọng tâm chú ý của thị trường lúc này là biên bản kỳ họp tháng 7 của Fed, sẽ công bố vào thứ Tư, và bài phát biểu của Chủ tịch Jerome Powell tại hội nghị chuyên đề kinh tế ở Jackson Hole vào thứ Sáu.
Nhà phân tích kỹ thuật Wang Tao cho biết giá vàng có thể giảm xuống 2.479-2.487 USD/ounce, sau khi không phá vỡ ngưỡng kháng cự 2.507 USD/ounce.
Nhưng nhà phân tích Giovanni Staunovo của UBS cho rằng giá vàng có thể tăng thêm trong những tháng tới, có khả năng đạt 2.600 USD/ounce vào cuối năm, đồng thời cho biết thị trường sẽ đặc biệt chú ý tới bất cứ dấu hiệu nào cho thấy ông Powell sắp cắt giảm lãi suất.
Về thị trường vàng vật chất, tại Trung Quốc, một số ngân hàng đã được ngân hàng trung ương cấp hạn ngạch nhập khẩu vàng mới, dự đoán nhu cầu sẽ phục hồi mặc dù giá cao kỷ lục.
Nhu cầu vàng đang mạnh mẽ do căng thẳng địa chính trị, đặc biệt là bởi xung đột Israel-Iran-Hamas, thúc đẩy hoạt động mua vào nơi trú ẩn an toàn, Achilleas Georgolopoulos, nhà phân tích đầu tư tại công ty môi giới ngoại hối XM, cho biết.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng tăng lên mức cao nhất 2,5 tuần do hoạt động mua mạnh do các dấu hiệu cho thấy nhu cầu tại Trung Quốc - nước tiêu thụ hàng đầu thế giới - được cải thiện và đồng USD suy giảm do gia tăng kỳ vọng Mỹ sắp cắt giảm lãi suất.
Kết thúc phiên, trên sàn London, giá đồng kỳ hạn 3 tháng tăng 1,5% lên 9.255 USD/tấn, sau khi có lúc đạt 9.277 USD/tấn, cao nhất kể từ ngày 1/8/2024.
Các nhà giao dịch trên thị trường vật chất, đặc biệt là ở Trung Quốc, gần đây ít tham gia vào thị trườn, sau khi giá tăng lên mức cao kỷ lục, trên 11.100 USD/tấn hồi tháng 5. Kể từ đó, giá đã giảm gần 20% và hiện đang hồi phục.
Các nhà giao dịch cho biết đồng USD giảm giá, khiến kim loại tính theo USD trở nên rẻ hơn đối với những người nắm giữ các loại tiền tệ khác.
"Nhu cầu đồng vật chất rõ ràng nhạy cảm với giá cả", Guy Wolf, giám đốc phân tích thị trường toàn cầu tại Marex cho biết. "Có vẻ như giá chào mua đồng vật chất ở mức 9.000 USD đã tác động đến tâm lý nhà đầu tư ".
Nhu cầu đồng ở Trung Quốc hồi phục khiến tồn trữ đồng tại Thượng Hải giảm xuống mức thấp nhất 5 tháng, là 262.206 tấn.
Tuy nhiên, lượng đồng lưu trữ tại các kho của sàn LME đã tăng lên mức cao nhất trong 5 năm, đạt trên 300.000 tấn và tăng khoảng 200% kể từ giữa tháng 5.
Về những kim loại cơ bản khác, giá nhôm trên sàn London tăng 2,9% lên 2.434 USD/tấn, trong phiên có lúc đạt mức cao nhất 1 tháng (2.449,5 USD/tấn), do tồn trữ tại London giảm và giá alumina tăng. Giá kẽm tăng 0,8% lên 2.785 USD/tấn, chì tăng 0,3% lên 2.042 USD/tấn, thiếc tăng 1,9% lên 32.495 USD/tấn và niken tăng 2% lên 16.695 USD/tấn.
Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên tăng trở lại theo xu hướng giá thép và do kỳ vọng các biện pháp kích thích kinh tế tại nước tiêu thụ hàng đầu – Trung Quốc – đã hỗ trợ xu hướng thị trường.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn Đại Liên tăng 0,71% lên 712 CNY (99,7 USD)/tấn. Trong đầu phiên giao dịch, giá quặng sắt chạm 688,5 CNY/tấn – mức thấp nhất kể từ tháng 8/2023. Quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn Singapore tăng 3,14% lên 94,9 USD/tấn.
Hầu hết các chuẩn thép trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải đều tăng, theo đó, giá thép cuộn tăng 1,5%, thép cây tăng 1,4%, thép không gỉ tăng 0,6%, song thép cuộn cán nóng giảm 1,3%.
Thị trường thép trong nước dự kiến sẽ ổn định trong tuần này, vì giá vật liệu xây dựng vẫn ổn định sau khi suy yếu vào tuần trước, trang thông tin tài chính Trung Quốc Hexun Futures cho biết.
Trong khi đó, theo công ty tư vấn Mysteel, nhu cầu về thép cây và thép cuộn có khả năng sẽ cải thiện đôi chút, vì thời tiết trở nên thuận lợi cho hoạt động xây dựng ngoài trời, trong khi sản lượng và hàng tồn kho có thể giảm thêm. Thép cây chủ yếu được sử dụng trong lĩnh vực xây dựng, trong khi thép cuộn thường được sử dụng trong lĩnh vực sản xuất.
Một loạt số liệu kinh tế khác của Trung Quốc yếu hơn kỳ vọng đang gây áp lực buộc Bắc Kinh phải nới lỏng hơn nữa nguonof tài chính và thậm chí là phát hành phiếu mua hàng để đạt mục tiêu tăng trưởng khoảng 5% trong năm nay.
Nông sản: Giá đậu tương Mỹ tăng từ mức thấp nhất gần 4 năm do nguồn cung thắt chặt. Giá ngô phiên này cũng tăng, trong khi giá lúa mì giảm. Giá ngô và đậu tương đã chịu áp lực do dự báo sản lượng của Mỹ tăng và thời tiết năm nay thuận lợi.
Kết thúc phiên, trên sàn Chicago, giá đậu tương tăng 13 US cent lên 9,7 USD/bushel, sau khi chạm mức thấp nhất kể từ tháng 9/2020; ngô tăng 6-1/2 US cent lên 3,99 USD/bushel sau khi chạm mức thấp nhất kể từ tháng10/2020 trong phiên trước đó; lúa mì giảm 1/2 US cent xuống 5,52 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 10/2024 vững ở mức 18,02 US cent/lb; đường trắng giao cùng kỳ hạn giảm 0,6% xuống 513,7 USD/tấn.
Nguồn cung đường trên thị trường lúc này khá dồi dào, mặc dù dự kiến xuất khẩu từ Brazil sẽ chậm lại vào cuối năm nay. Kết quả một cuộc thăm dò của Reuters cho thấy các nhà giao dịch và nhà phân tích dự báo giá đường thô thế giới sẽ tăng trưởng trở lại từ nay đến cuối năm, nhưng tính chung cả năm 2024 sẽ giảm gần 3%.
Giá cà phê Robusta tăng lên mức cao nhất 4 tuần do lượng cung ứng từ Việt Nam chậm lại làm thắt chặt nguồn cung trên toàn cầu.
Kết thúc phiên, à phê robusta kỳ hạn tháng 11/2024 trên sàn London tăng 0,7% lên 4.476 USD/tấn, sau khi đạt mức cao nhất 4 tuần (4.535 USD/tấn); cà phê arabica kỳ hạn tháng 12/2024 trên sàn ICE vững ở mức 2,4435 USD/lb, sau khi đạt mức cao nhất 5 tuần (2,482 USD/lb).
Các đại lý cho biết xuất khẩu từ nhà sản xuất robusta lớn nhất thế giới, Việt Nam, tiếp tục thấp hơn cùng kỳ năm ngoái, đồng thời cho biết việc đưa cà phê robusta xuất khẩu của Brazil ra khỏi cảng Vitoria gặp khó khăn do hoạt động ở cảng này ở mức giới hạn công suất liên quan đến việc vận chuyển container.
Xuất khẩu cà phê của Uganda trong tháng 7 tăng 27,2% so với cùng kỳ năm ngoái nhờ sản lượng bội thu.
Giá cao su kỳ hạn tương lai trên thị trường Nhật Bản giảm bởi lo ngại về triển vọng nhu cầu tại nước tiêu thụ hàng đầu thế giới – Trung Quốc - và đồng yên tăng mạnh. Tuy nhiên, giá cao su tổng hợp cao đã hạn chế đà suy giảm.
Kết thúc phiên, cao su kỳ hạn tháng 1/2025 trên sàn Osaka (OSE) giảm 2,4 JPY tương đương 0,73% xuống 326,5 JPY (2,25 USD)/kg. Cao su kỳ hạn tháng 1/2025 trên sàn Thượng Hải tăng 60 CNY tương đương 0,37% lên 16.155 CNY (2.261,43 USD)/tấn. Cao su kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn Singapore tăng 0,8% lên 174,3 US cent/kg.
Giá cao su thiên nhiên tăng một phần do xu hướng tăng giá cao su butadien trên sản SHFE, nhưng mức tăng sẽ bị hạn chế bởi nhu cầu ở Trung Quốc liên tục yếu kém, Jom Jacob, nhà phân tích trưởng tại công ty phân tích Ấn Độ What Next Rubber cho biết.
Đồng USD giảm mạnh so với đồng JPY, giảm hơn 1% xuống 146,01 JPY/USD. Đồng JPY tăng mạnh khiến tài sản được định giá bằng đồng JPY rẻ hơn đối với khách hàng nước ngoài.
Hợp đồng cao su butadien kỳ hạn tháng 10 trên SHFE tăng 135 nhân dân tệ, hay 0,94%, đóng cửa ở mức 14.435 nhân dân tệ (2.020,66 USD)/tấn.
Giá hàng hóa thế giới:

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

73,87

-0,50

-0,67%

Dầu Brent

USD/thùng

77,18

-0,48

-0,62%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

225,00

-1,38

-0,61%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,24

+0,00

+0,09%

Dầu đốt

US cent/gallon

225,18

-1,17

-0,52%

Vàng (Comex)

USD/ounce

2.537,30

-4,00

-0,16%

Vàng giao ngay

USD/ounce

2.499,60

-4,68

-0,19%

Bạc (Comex)

USD/ounce

29,73

-0,01

-0,02%

Bạch kim giao ngay

USD/ounce

960,71

+0,65

+0,07%

Đồng (Comex)

US cent/lb

420,85

-1,15

-0,27%

Đồng (LME)

USD/tấn

9.252,00

+136,50

+1,50%

Nhôm (LME)

USD/tấn

2.445,50

+80,00

+3,38%

Kẽm (LME)

USD/tấn

2.787,00

+24,50

+0,89%

Thiếc (LME)

USD/tấn

32.575,00

+672,00

+2,11%

Ngô (CBOT)

US cent/bushel

399,50

-0,75

-0,19%

Lúa mì (CBOT)

US cent/bushel

551,00

-1,25

-0,23%

Lúa mạch (CBOT)

US cent/bushel

306,25

-1,00

-0,33%

Gạo thô (CBOT)

USD/cwt

14,90

+0,01

+0,03%

Đậu tương (CBOT)

US cent/bushel

974,00

-2,00

-0,20%

Khô đậu tương (CBOT)

USD/tấn

309,20

-1,30

-0,42%

Dầu đậu tương (CBOT)

US cent/lb

39,02

-0,06

-0,15%

Hạt cải (ICE)

CAD/tấn

572,00

-1,50

-0,26%

Cacao (ICE)

USD/tấn

7.338,00

+251,00

+3,54%

Cà phê (ICE)

US cent/lb

244,35

+0,25

+0,10%

Đường thô (ICE)

US cent/lb

18,02

-0,01

-0,06%

Nước cam cô đặc đông lạnh (ICE)

US cent/lb

450,60

-6,65

-1,45%

Bông (ICE)

US cent/lb

68,85

+0,17

+0,25%

Lông cừu (ASX)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ (CME)

USD/1000 board feet

--

--

--

Cao su Singapore

US cent/kg

176,50

-0,30

-0,17%

Ethanol (CME)

USD/gallon

2,16

0,00

0,00%

 

 

Nguồn: Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)