Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm 1% do lo ngại tăng trưởng kinh tế toàn cầu chậm lại có thể khiến nhu cầu năng lượng giảm, làm mất đi tác động tích cực từ cam kết cắt giảm sản lượng sâu của Saudi Arabia.
Kết thúc phiên này, giá dầu thô Brent giảm 42 US cent, tương đương 0,6%, xuống 76,29 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 41 US cent, tương đương 0,6%, xuống 71,74 USD/thùng.
Trong phiên thứ Hai, giá dầu tăng sau khi Saudi Arabia cho biết sẽ cắt giảm sản lượng xuống khoảng 9 triệu thùng/ngày (bpd) trong tháng 7/2023, từ mức 10 triệu bpd trong tháng 5/2023. Saudi Arabia – nước xuất khẩu dầu hàng đầu thế giới – cũng bất ngờ tăng giá bán chính thức đối với các khách hàng châu Á.
Tuy nhiên, việc cắt giảm nguồn cung của Ả Rập Saudi khó có thể đạt được mục tiêu "tăng giá bền vững" ở mức khoảng 80 – 90 USD do nhu cầu yếu, nguồn cung ngoài OPEC mạnh hơn, tăng trưởng kinh tế chậm hơn ở Trung Quốc và suy thoái tiềm ẩn ở Mỹ và Châu Âu. Các nhà phân tích của Citi cho biết trong một lưu ý.
Đồng đô la đã tăng lên mức cao nhất so với rổ tiền tệ kể từ khi đạt mức cao nhất trong 10 tuần vào ngày 31 tháng 5 khi các nhà đầu tư chờ đợi những tín hiệu mới về việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ sẽ tăng hay giữ nguyên lãi suất vào tháng Sáu.
Đồng đô tăng có thể ảnh hưởng đến nhu cầu dầu mỏ bằng cách làm cho nhiên liệu trở nên đắt đỏ hơn đối với những người nắm giữ các loại tiền tệ khác.
Một trong những tín hiệu đó đến từ lĩnh vực dịch vụ của Mỹ, lĩnh vực hầu như không tăng trưởng trong tháng 5 do số lượng đơn đặt hàng mới chậm lại.
Edward Moya, nhà phân tích thị trường cao cấp của công ty dữ liệu và phân tích OANDA, cho biết: “Giá dầu thô giảm mạnh do những lo ngại về tăng trưởng toàn cầu tiếp tục cho thấy triển vọng nhu cầu dầu thô yếu hơn nhiều”.
Tuy nhiên, Ngân hàng Thế giới đã nâng triển vọng tăng trưởng toàn cầu năm 2023 khi Mỹ, Trung Quốc và các nền kinh tế lớn khác đã chứng tỏ khả năng phục hồi tốt hơn so với dự báo, nhưng cho biết lãi suất cao hơn và tín dụng thắt chặt hơn sẽ gây thiệt hại lớn hơn cho kết quả tăng trưởng của năm tới. Lãi suất cao hơn làm tăng chi phí đi vay, có thể làm chậm nền kinh tế và giảm nhu cầu dầu mỏ.
Thị trường đang chờ đợi dữ liệu kinh tế từ Mỹ và Trung Quốc có thể cung cấp các dấu hiệu nhu cầu mới ở hai quốc gia tiêu thụ dầu lớn nhất thế giới. Trung Quốc, nước tiêu thụ dầu lớn thứ hai, sẽ công bố dữ liệu thương mại tháng 5 vào thứ Tư.
Cơ quan Thông tin Năng lượng (EIA) dự báo sản lượng dầu thô của Mỹ sẽ tăng từ 11,9 triệu bpd trong năm 2022 lên 12,6 triệu bpd năm 2023 và 12,8 triệu bpd năm 2024, so với mức cao kỷ lục 12,3 triệu bpd năm 2019.
EIA cũng dự báo nhu cầu xăng dầu của Mỹ sẽ tăng từ 20,3 triệu bpd năm 2022 lên 20,4 triệu bpd năm 2023 và 20,7 triệu bpd năm 2024, so với mức cao kỷ lục 20,8 triệu bpd năm 2005.
Theo một cuộc thăm dò của Reuters, các nhà phân tích dự báo các công ty năng lượng của Mỹ đã bổ sung khoảng 1,0 triệu thùng dầu thô vào kho trong tuần kết thúc vào ngày 2 tháng 6. Đó sẽ là mức tăng dự trữ dầu thô hàng tuần thứ hai liên tiếp và so với mức tăng 2,0 triệu thùng trong cùng tuần năm ngoái và mức tăng trung bình 5 năm (2018-2022) là 2,3 triệu thùng.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giao dịch trong biên độ hẹp do các nhà đầu tư chờ đợi thêm tín hiệu để đánh giá lộ trình lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước cuộc họp chính sách vào tuần tới.
Vàng giao ngay kết thúc phiên này tăng 0,1% lên 1.964,27 USD/ounce; vàng kỳ hạn tháng 8/2023 tăng 0,4% lên 1.981,5 USD/ounce.
Giá bạc giao ngay phiên này vững ở mức 23,57 USD/ounce, bạch kim tăng 0,2% lên 1.032,80 USD, trong khi palladium giảm 0,1% xuống 1.412,81 USD.
Chỉ số đồng USD và lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm tăng, khiến vàng được định giá bằng đồng bạc xanh trở nên kém hấp dẫn hơn so với tiền tệ khác.
Phillip Streible, giám đốc chiến lược thị trường của Blue Line Futures, ở Chicago, cho biết: “Bề ngoài không có gì nói rằng vàng sẽ tăng giá… Các nhà kinh doanh đang chờ - xem”.
Theo công cụ FedWatch của CME Group, các nhà đầu tư hiện kỳ vọng 79% khả năng ngân hàng trung ương Mỹ sẽ giữ nguyên lãi suất tại cuộc họp chính sách ngày 13-14 tháng 6, sau 10 lần tăng lãi suất liên tiếp.
Craig Erlam, nhà phân tích thị trường cấp cao tại OANDA, cho biết vàng đang ổn định nhờ báo cáo việc làm vào thứ Sáu và sự chú ý hướng đến cuộc họp thiết lập chính sách của Fed vào tuần tới, đồng thời cho biết thêm rằng vẫn có sự không chắc chắn về lộ trình tăng lãi suất.
Các thương nhân sẽ theo dõi chặt chẽ dữ liệu Chỉ số giá tiêu dùng vào ngày 13 tháng 6, trước khi Fed đưa ra quyết định về lãi suất.
Streible nói thêm: “Tuần tới sẽ có rất nhiều dữ liệu biến động thị trường… Tôi đang thực hiện một cách tiếp cận rủi ro có tính toán hơn”.
Ngân hàng Thế giới đã nâng dự báo tăng trưởng toàn cầu năm 2023, khi Mỹ và các nền kinh tế lớn khác đã chứng tỏ khả năng phục hồi tốt hơn so với dự báo, song lãi suất tăng sẽ gây ra lực cản cao hơn so với dự kiến trong năm tới.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm do số liệu hoạt động nhà máy và lĩnh vực dịch vụ của Mỹ làm gia tăng mối lo ngại về nền kinh tế, trong khi các tín hiệu kỹ thuật suy giảm đã thúc đẩy các nhà đầu tư bán ra.
Giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn London giảm 0,1% xuống 8.328,5 USD/tấn, sau khi tăng 1,2% trong phiên trước đó.
Ole Hansen, người đứng đầu bộ phận chiến lược hàng hóa của Ngân hàng Saxo ở Copenhagen, cho biết: “Dữ liệu yếu mà chúng tôi có được từ Mỹ ngày hôm qua cho thấy nền kinh tế Mỹ cuối cùng cũng bắt đầu có một số dấu hiệu suy yếu”. Dữ liệu vào thứ Hai cho thấy lĩnh vực dịch vụ của Mỹ hầu như không tăng trưởng trong tháng Năm do các đơn đặt hàng mới chậm lại.
Đồng đã tăng trở lại khoảng 6% kể từ khi chạm mức thấp nhất trong gần sáu tháng vào ngày 24 tháng Năm. Tại Thượng Hải, giá đồng tăng lên mức cao nhất gần 4 tuần, một phần do kỳ vọng Trung Quốc sẽ công bố thêm các biện pháp hỗ trợ kinh tế nhằm thúc đẩy nhu cầu kim loại.
Ông Hansen cho biết một số nhà đầu tư tỏ ra hoài nghi về Trung Quốc sau sự lạc quan hồi đầu năm dẫn đến thất vọng khi nhu cầu không phục hồi mạnh mẽ.
Về những kim loại cơ bản khác, giá nhôm phiên này giảm 1,4% xuống 2.212 USD/tấn, trong khi kẽm tăng 1,7% lên 2.297,80 USD, niken tăng 0,2% lên 20.940 USD, chì tăng 0,1% lên 2.030 USD và thiếc tăng 0,3% lên 25.630 USD.
Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên tăng lên mức cao nhất 7 tuần do kỳ vọng các biện pháp kích thích hơn nữa tại nước sản xuất thép hàng đầu thế giới, Trung Quốc.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn Đại Liên tăng 1,3% lên 766,5 CNY (107,7 USD)/tấn, trong phiên có lúc đạt 782,5 CNY/tấn – cao nhất kể từ ngày 19/4/2023. Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 7/2023 trên sàn Singapore tăng 0,7% lên 105,75 USD/tấn, trong phiên có lúc đạt 108,4 USD/tấn – cao nhất kể từ ngày 21/4/2023.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây tăng 0,1%, thép cuộn cán nóng không thay đổi, trong khi thép cuộn giảm 0,8%. Giá thép không gỉ tăng 0,7%.
Các nhà phân tích cho biết các nhà đầu tư nên tiết chế sự lạc quan của họ.
Các nhà phân tích của National Australia Bank cho biết: “Chúng tôi tiếp tục tin rằng các nhà đầu tư nên xem xét sự biến động trong ngắn hạn. "Sự phục hồi của lĩnh vực bất động sản Trung Quốc nhờ kích thích có thể đẩy giá quặng sắt lên cao từ đây, nhưng thời điểm vẫn khó dự đoán."
Trên thị trường nông sản, giá ngô và đậu tương Mỹ tăng trong khi lúa mì biến động trái chiều.
Kết thúc phiên, trên sàn Chicago, giá lúa mì đỏ mềm, vụ đông kỳ hạn tháng 7/2023 tăng 3-3/4 US cent lên 6,27-3/4 USD/bushel. Giá ngô kỳ hạn tháng 7/2023 tăng 10-1/2 US cent lên 6,08 USD/bushel và giá đậu tương giao cùng kỳ hạn tăng 3-1/4 US cent lên 13,53-1/4 USD/bushel, sau khi đạt 13,64 USD/bushel – cao nhất kể từ ngày 17/5/2023.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 7/2023 trên sàn ICE tăng 0,7% lên 24,58 US cent/lb, sau khi chạm mức thấp nhất 6,5 tuần (24,33 US cent/lb) lúc đầu phiên giao dịch; đường trắng kỳ hạn tháng 8/2023 trên sàn London giảm 0,8% xuống 670,9 USD/tấn.
Các đại lý cho biết thị trường vẫn ở thế phòng thủ, với các quỹ thu hẹp các vị thế mua do thời tiết thu hoạch nhìn chung thuận lợi ở khu vực Trung-Nam của Brazil.
Giá cà phê robusta trên sàn London tăng lên mức cao nhất 3 tuần, được hỗ trợ bởi nhu cầu tăng. à phê robusta kỳ hạn tháng 7/2023 trên sàn London tăng 0,3% lên 2.614 USD/tấn. Trong khi đó, giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 7/2023 trên sàn ICE giảm 0,3% xuống 1,826 USD/lb.
“Giá cà phê robusta đã được hưởng lợi từ sự hỗ trợ cơ bản, đặc biệt là từ phía cầu,” Tổ chức Cà phê Quốc tế (ICO) cho biết trong một bản cập nhật hàng tháng.
Dự trữ cà phê nhân cải thiện nhẹ ở châu Âu vào cuối tháng 4 nhưng vẫn ở mức thấp nhất trong 5 năm qua tại Nhật Bản, hai trong số các khu vực tiêu thụ cà phê lớn nhất thế giới, cùng với Mỹ và Brazil.
Giá cao su trên thị trường châu Á giá trong bối cảnh giá dầu thô giảm, trong khi các thương nhân chờ đợi số liệu thương mại của Trung Quốc vào cuối tuần này để có thêm định hướng.
Cao su kỳ hạn tháng 11/2023 trên sàn Osaka giảm 0,1 JPY tương đương 0,1% xuống 210,6 JPY (1,51 USD)/kg, rời khỏi chuỗi tăng 3 phiên liên tiếp. Cao su kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn Thượng Hải giảm 180 CNY xuống 11.825 CNY (1.662,17 USD)/tấn. Cao su kỳ hạn tháng 7/2023 trên sàn Singapore giảm 0,5% xuống 132,4 US cent/kg.
Một nhà kinh doanh cao su có trụ sở tại Singapore cho biết: “Thị trường vẫn chưa có kết luận chính xác mặc dù giá đã tăng vào thứ Hai do chi phí dầu mỏ tăng cao sau cuộc họp của OPEC+”.
Các thương nhân đang chờ đợi các số liệu sắp tới của Trung Quốc để xem dấu hiệu hồi phục tiếp theo của nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới, song nguồn cung từ Thái Lan và châu Phi khi mùa đông kết thúc đã gây áp lực giá.
Một cuộc thăm dò của Reuters cho thấy nhập khẩu của Trung Quốc dự kiến sẽ giảm trong tháng 5/2023, trong khi xuất khẩu giảm lần đầu tiên trong 3 tháng.
Giá hàng hóa thế giới:

 

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

71,82

-0,33

-0,46%

Dầu Brent

USD/thùng

76,28

-0,43

-0,56%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

66.100,00

-300,00

-0,45%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,25

+0,01

+0,36%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

254,74

+2,30

+0,91%

Dầu đốt

US cent/gallon

236,77

-0,98

-0,41%

Dầu khí

USD/tấn

698,75

-8,25

-1,17%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

75.100,00

0,00

0,00%

Vàng New York

USD/ounce

1.978,70

+4,40

+0,22%

Vàng TOCOM

JPY/g

8.791,00

+28,00

+0,32%

Bạc New York

USD/ounce

23,67

+0,03

+0,13%

Bạc TOCOM

JPY/g

105,10

-0,80

-0,76%

Bạch kim

USD/ounce

1.034,57

+1,79

+0,17%

Palađi

USD/ounce

1.418,89

+3,89

+0,27%

Đồng New York

US cent/lb

376,40

-0,40

-0,11%

Đồng LME

USD/tấn

8.335,00

+98,00

+1,19%

Nhôm LME

USD/tấn

2.244,00

-19,50

-0,86%

Kẽm LME

USD/tấn

2.288,50

-18,00

-0,78%

Thiếc LME

USD/tấn

25.565,00

-86,00

-0,34%

Ngô

US cent/bushel

604,75

+7,25

+1,21%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

626,00

+2,00

+0,32%

Lúa mạch

US cent/bushel

342,75

-0,25

-0,07%

Gạo thô

USD/cwt

15,30

+0,14

+0,89%

Đậu tương

US cent/bushel

1.356,00

+6,00

+0,44%

Khô đậu tương

USD/tấn

397,80

-3,40

-0,85%

Dầu đậu tương

US cent/lb

50,66

+1,40

+2,84%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

645,60

+14,50

+2,30%

Cacao Mỹ

USD/tấn

3.048,00

-10,00

-0,33%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

180,40

+0,20

+0,11%

Đường thô

US cent/lb

24,57

+0,17

+0,70%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

266,30

-7,85

-2,86%

Bông

US cent/lb

81,56

+0,14

+0,17%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

--

--

--

Cao su TOCOM

JPY/kg

131,30

-1,30

-0,98%

Ethanol CME

USD/gallon

2,16

0,00

0,00%

 

 

Nguồn: Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)