Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng 3%, mức tăng mạnh nhất trong vòng 2 tuần, khi các nhà giao dịch cảnh giác về kết quả cuộc họp của OPEC + vào Chủ nhật, trong khi Hạ viện Mỹ thông qua dự luật đình chỉ trần nợ đã giúp bù đắp tác động của việc lượng tồn trữ tại nước này tăng lên.
Kết thúc phiên giao dịch, giá dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 2,01 đô la, tương đương 3%, lên mức 70,10 đô la một thùng, ghi nhận mức tăng hàng ngày lớn nhất kể từ ngày 5 tháng Năm.
Dầu thô Brent tăng 1,68 USD, tương đương 2,3%, lên 74,28 USD/thùng, mức tăng hàng ngày lớn nhất kể từ 17 tháng 5.
Cả 2 loại dầu đều phục hồi sau hai phiên giảm liên tiếp sau khi Hạ viện Mỹ đã thông qua dự luật vào cuối ngày thứ Tư nhằm đình chỉ trần nợ của chính phủ và cải thiện cơ hội ngăn chặn tình trạng vỡ nợ. Luật pháp bây giờ chuyển đến Thượng viện.
Nhà phân tích Stewart Glickman của CFRA Research cho biết: “Các cuộc đàm phán trần nợ thành công đã xóa sạch ‘bãi mìn’ đó, nhưng triển vọng tổng thể về nhu cầu vẫn còn u ám – ví dụ như lĩnh vực vận tải đường bộ đang hoạt động kém hiệu quả”.
Tâm điểm của thị trường cũng chuyển sang cuộc họp ngày 4/6 của Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ và các đồng minh bao gồm Nga, được gọi chung là OPEC+.
Nhà phân tích Craig Erlam của OANDA cho biết: “Cuộc họp của OPEC+ vào cuối tuần này có thể dẫn đến một chút thận trọng đối với các mức (giá thấp), đặc biệt là trước cảnh báo 'hãy coi chừng' từ bộ trưởng năng lượng Saudi Arabia."
Bốn nguồn tin từ OPEC+ nói với Reuters rằng liên minh này khó có thể cắt giảm sâu nguồn cung tại cuộc họp vào Chủ nhật, nhưng một số nhà phân tích cho rằng vẫn có khả năng xảy ra điều đó do các chỉ số nhu cầu từ Trung Quốc và Mỹ trong những tuần gần đây đã gây thất vọng.
Theo dữ liệu từ Cơ quan Thông tin Năng lượng, các kho dự trữ dầu thô của Mỹ bất ngờ tăng vào tuần trước do nhập khẩu tăng và dự trữ chiến lược giảm xuống mức thấp nhất kể từ tháng 9 năm 1983.
Peter McNally, nhà phân tích của Third Bridge cho biết: “Các chuyên giacủa Third Bridge sẽ không loại trừ các hành động quyết liệt hơn từ OPEC+, nhưng cuộc chiến giằng co hiện nay trên thị trường vừa theo mùa vừa theo chu kỳ”.
McNally nói thêm: "Chúng tôi đang theo dõi xem mức tăng nhu cầu trong mùa hè của các nước phát triển sẽ liên quan đến những khó khăn trong quá trình phục hồi theo chu kỳ của Trung Quốc như thế nào. Điều này sẽ quyết định mức độ hiệu quả của OPEC+".
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng lên mức cao nhất hơn một tuần do đồng USD sụt giảm sau khi dữ liệu kinh tế Mỹ làm dấy lên kỳ vọng Cục Dự trữ Liên bang bỏ qua việc tăng lãi suất tại cuộc họp chính sách trong tháng Sáu.
Giá vàng giao ngay kết thúc phiên tăng 0,7% lên 1.976,81 USD/ounce, sau khi có lúc tăng 1,1% lên mức cao nhất kể từ ngày 24 tháng 5. Giá vàng giao tháng 8 tăng 0,7% lên 1.995,50 USD.
Giá bạc giao ngay tăng 1,7% lên mức cao nhất trong hai tuần, là 23,88 USD/ounce, trong khi palladium tăng 2% đạt 1.389,78 USD. Giá bạch kim 1,2% lên 1.004,93 USD, sau khi chạm mức thấp nhất trong bảy tuần.
Sản xuất của Mỹ trong tháng 5 giảm tháng thứ bảy liên tiếp khi số lượng đơn đặt hàng mới tiếp tục giảm mạnh, trong khi số lượng đơn xin trợ cấp thất nghiệp mới của Mỹ tăng nhẹ vào tuần trước.
Đồng đô la trượt giá khiến vàng thỏi trở nên rẻ hơn đối với những người nắm giữ các loại tiền tệ khác, trong khi lợi tức trái phiếu kho bạc 10 năm chạm mức thấp nhất trong hai tuần.
Daniel Pavilonis, chiến lược gia thị trường cấp cao của RJO Futures, cho biết: "Fed sẽ không muốn làm nhiều việc như vậy. Tôi nghĩ họ muốn giữ lãi suất ở mức cao".
Giám đốc Fed Philadelphia, Patrick Harker, cho biết trừ khi có bất kỳ bất ngờ nào về dữ liệu kinh tế, ông muốn giữ lãi suất ổn định trong tháng Sáu. Các quan chức khác của Fed, bao gồm cả phó chủ tịch, cũng chỉ ra ý đồ "bỏ qua"việc tăng lãi suất. Các thị trường đang nhận định 75% cơ hội lãi suất không thay đổi trong tháng Sáu. Vàng, vốn không mang lại bất kỳ lãi suất nào nên sẽ mất đi sức hấp dẫn khi lãi suất tăng.
Nhà phân tích Carsten Fritsch của Commerzbank cho biết: “Có một số nhu cầu trú ẩn an toàn hỗ trợ vàng vì sự không chắc chắn liên quan đến dự luật trần nợ”.
Thượng viện Mỹ sẽ tiếp tục họp cho đến khi dự luật được thông qua, Lãnh đạo Đa số Dân chủ Chuck Schumer cho biết, chỉ còn bốn ngày để thông qua biện pháp này và ngăn chặn một vụ vỡ nợ thảm khốc.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá kim loại cơ bản tỏa sáng nhờ dữ liệu lạc quan phát đi từ Trung Quốc – qua dữ liệu hoạt động của các nhà máy - và tiến trình thỏa thuận nợ của Mỹ.
Giá đồng kỳ nhạn 3 tháng trên Sàn giao dịch kim loại Luân Đôn (LME) tăng 1,9% lên 8.241,5 USD/tấn. Kim loại được sử dụng trong năng lượng và xây dựng này đã giảm 5,9% trong tháng Năm.
ING dự báo giá đồng sẽ tiếp tục biến động trong những ngày tới, phản ứng với bất kỳ thay đổi chính sách nào ở Trung Quốc và đạt mức trung bình 8.500 USD/tấn vào năm 2023.
Nhà phân tích Ewa Manthey của ING cho biết: “Trong thời gian tới, giá đồng có thể sẽ tiếp tục bị chi phối bởi tốc độ phục hồi kinh tế của Trung Quốc cũng như lộ trình tăng lãi suất của Fed (Mỹ).
Tại quốc gia tiêu thụ hàng đầu thế giới – Trung Quốc, được thúc đẩy bởi sản xuất và nhu cầu được cải thiện, chỉ số nhà quản lý mua hàng sản xuất toàn cầu (PMI) của Caixin/S&P đã tăng lên 50,9 trong tháng 5, đánh dấu sự tăng trưởng trở lại, trái với hoạt động bị thu hẹp trong chỉ số PMI chính thức vào thứ Tư.
Trên thị trường kẽm, tồn trữ ở LME giảm xuống còn 78.650 tấn. Giá kẽm trên sàn LME phiên này tăng 1,6% lên 2.284 USD/tấn, nhôm tăng 1,7% lên 2.285 USD, niken tăng 3,7% lên 21.340 USD và thiếc tăng 0,8% lên 25.660 USD. Riêng giá chì giảm 0,5% xuống 2.002,5 đô la sau khi chạm mức thấp nhất trong gần bảy tháng, là 1.976 đô la.
Giá quặng sắt trên thị trường châu Á đạt mức cao nhất trong hai tuần khi nhà đầu tư gia tăng lạc quan về triển vọng các chính sách kích thích của Trung Quốc nhằm phục hồi nền kinh tế, dữ liệu hoạt động của nhà máy tốt hơn mong đợi và lo ngại về gián đoạn nguồn cung.
Các nhà phân tích thuộc ngân hàng đầu tư ANZ cho biết dữ liệu sản xuất yếu kém đã làm tăng kỳ vọng về chính sách hỗ trợ cho ngành công nghiệp.
Chỉ số quản lý mua hàng sản xuất chính thức (PMI) được công bố vào thứ Tư đã giảm xuống mức thấp nhất trong 5 tháng là 48,8, góp phần làm suy yếu thị trường kim loại đen vào ngày hôm đó. Tuy nhiên, chỉ số PMI toàn cầu của Caixin/S&P đã tăng lên 50,9 trong tháng 5 từ 49,5 trong tháng 4, cao hơn mốc chỉ số 50 điểm phân tách giữa tăng trưởng và thu hẹp, dữ liệu cho thấy vào thứ Năm. Kết quả vượt quá mong đợi là 49,5 trong một cuộc thăm dò của Reuters.
Hỗ trợ thị trường quặng sắt còn có mối lo ngại về khả năng gián đoạn nguồn cung, mặc dù một số nhà phân tích đã giảm nhẹ tác động đó.
Quặng sắt kỳ hạn tháng 9 trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên - được giao dịch nhiều nhất - kết thúc phiên tăng 5,77% lên 743 nhân dân tệ (107,49 USD)/tấn, cao nhất kể từ ngày 18 tháng 5.
Quặng sắt kỳ hạn tháng 6 trên Sàn giao dịch Singapore tăng 3,38% lên 104,65 USD/tấn, cao nhất kể từ ngày 19 tháng 5.
Giá nguyên liệu thô tăng cũng hỗ trợ giá thép. Giá thép cây trên Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải tăng 2,84% lên 3.546 nhân dân tệ/tấn, thép cuộn cán nóng tăng 3,1%, dây thép cuộn tăng 1,29% và thép không gỉ tăng 2,31%.
Trên thị trường nông sản, giá ngũ cốc Mỹ tăng do lo ngại về tình trạng khô hạn tại vành đai cây trồng Trung Tây nước Mỹ, trong khi đồng đô la giảm giá và hoạt động mua đầu cơ vào đầu tháng mới hỗ trợ thêm cho xu hướng này.
Kết thúc phiên, giá lúa mì kỳ hạn tương lai trên sàn thương mại Chicago (CBOT) tăng 2,8%, tiếp tục dài đà phục hồi của ngày thứ Tư từ mức thấp nhất trong 2 năm rưỡi.
Giá ngô biến động trái chiều, với lo ngại về nhu cầu gây áp lực lên hợp đồng kỳ hạn tháng 7 trong khi các hợp đồng kỳ hạn sau đó tăng do thời tiết xấu ở Mỹ. Việc thông qua dự luật trần nợ của Mỹ tại Hạ viện cũng như dầu thô tương lai và thị trường chứng khoán Phố Wall tăng điểm cũng hỗ trợ giá ngũ cốc.
Giá đậu tương giao tháng 7 trên sàn CBOT tăng 29-3/4 cent lên 13,29-1/2 USD/bushel, lúa mì tháng 7 tăng 16-1/2 cent lên 6,10-3/4 USD, ngô giao tháng 7 giảm 1-1/2 cent xuống 5,95-1/2 USD/bushel, trong khi ngô kỳ hạn tháng 12, đại diện cho vụ mùa năm 2023, tăng 8-1/4 cent lên 5,30 USD. Giá đậu tương và ngô vụ mới tăng do lo ngại hạn hán ảnh hưởng đến triển vọng sản xuất của Mỹ. Lúa mì nhận được hỗ trợ từ tin tức về lượng mưa dư thừa ở vành đai lúa mì của Trung Quốc. Các nhà dự báo nhà nước cho biết, tỉnh trồng lúa mì hàng đầu nước này, là Hà Nam, dự kiến sẽ hứng chịu nhiều mưa hơn trong những ngày tới, gây khó khăn cho việc thu hoạch ngũ cốc đã bị hư hại do thời tiết ẩm ướt vào cuối tháng Năm. Trung Quốc là nước trồng lúa mì lớn nhất thế giới và cũng là nước nhập khẩu lớn.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 7 giảm 0,18 cent, tương đương 0,7%, xuống 24,88 cent/lb, sau khi giảm 7,15% trong tháng 5; đường trắng kỳ hạn tháng 8 giảm 6,00 USD, tương đương 0,9%, xuống 690,10 USD/tấn.
Các đại lý lưu ý rằng tâm lý nhà đầu tư lạc quan khi kinh tế vĩ mô được cải thiện liên quan đến tiến trình đạt được thỏa thuận về trần nợ của Mỹ. Tuy nhiên, họ nói thêm rằng những lo ngại đang gia tăng về sự chậm trễ trên diện rộng trong việc gieo củ cải đường ở châu Âu do thời tiết ẩm ướt và khả năng sâu bệnh tấn công ở Pháp, trong khi mưa lớn ở nhà sản xuất hàng đầu Brazil trong tuần này có thể sẽ ảnh hưởng đến vụ nghiền mía.
Giá cà phê Robusta kỳ hạn trên sàn giao dịch ICE tăng mạnh vào thứ Năm với các báo cáo tiếp theo về tình trạng khan hiếm nguồn cung ở khu vực sản xuất và xuất khẩu hàng đầu châu Á, trong khi cà phê arabica cũng tăng.
Cà phê robusta kỳ hạn tháng 7 tăng 49 USD, tương đương 1,9%, lên 2.605 USD/tấn, sau khi đạt mức cao nhất 15 năm vào tuần trước; cà phê arabica giao tháng 7 cũng tăng 4,4 cent, tương đương 2,5%, lên 1,8305 USD/lb.
Một nhà phân tích hôm thứ Năm cho biết thị trường arabica có thể sớm trải qua một đợt giảm giá ngắn hạn.
Tuy nhiên, một số nguồn tin cho biết người trồng cà phê hiện không còn nhiều hàng để xuất khẩu, trong khi các nhà xuất khẩu ở Indonesia cũng đang phải tranh giành nguồn cung.
Xuất khẩu cà phê robusta Sumatra từ Indonesia trong tháng 4 giảm 46,7% so với cùng kỳ, dữ liệu cho thấy.
Các chuyên gia và thương nhân cà phê robusta ở châu Âu đang ngày càng lo lắng rằng thị trường sẽ vẫn khan hiếm cho đến năm sau do tình trạng thiếu hụt rõ rệt ở châu Á khiến xuất khẩu cải thiện từ Brazil có thể không đủ để thu hẹp khoảng cách.
Giá cao su trên thị trường Nhật Bản tăng nhẹ vào thứ Năm, nhờ các cuộc khảo sát khu vực tư nhân cho thấy hoạt động của các nhà máy ở Trung Quốc và Nhật Bản tăng trưởng, trong khi đồng yên yếu hơn cũng hỗ trợ phần nào.
Hợp đồng cao su giao tháng 11 của Sàn giao dịch Osaka kết thúc tăng 0,2 yên, tương đương 0,1%, lên 208,2 yên (1,54 USD)/kg, chấm dứt đà giảm trong hai ngày trước đó. Hợp đồng cao su giao tháng 9 trên sàn giao dịch Thượng Hải giảm 15 CNY xuống còn 11.850 CNY (1.714,38 USD)/tấn. Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 7 trên nền tảng SICOM của Sở giao dịch Singapore được giao dịch không đổi ở mức 131,2 US cent/kg.
Chỉ số Nikkei trung bình của Nhật Bản đóng cửa tăng 0,87%. Đồng yên suy yếu 0,33% so với đồng đô la xuống 135,99, khiến tài sản bằng đồng yên trở nên hợp lý hơn khi mua bằng các loại tiền tệ khác.
Hoạt động nhà máy của Nhật Bản mở rộng trong tháng 5 lần đầu tiên sau 7 tháng nhờ sản lượng và số lượng đơn đặt hàng mới tăng, đồng thời được hỗ trợ bởi triển vọng tích cực trong năm tới, một cuộc khảo sát khu vực tư nhân cho thấy.
Giá hàng hóa thế giới:

 

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

70,08

-0,02

-0,03%

Dầu Brent

USD/thùng

74,28

+1,68

+2,31%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

62.650,00

-490,00

-0,78%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,16

+0,00

+0,19%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

243,78

+0,16

+0,07%

Dầu đốt

US cent/gallon

231,54

+0,07

+0,03%

Dầu khí

USD/tấn

681,50

+18,75

+2,83%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

75.100,00

0,00

0,00%

Vàng New York

USD/ounce

1.994,70

-0,80

-0,04%

Vàng TOCOM

JPY/g

8.804,00

+7,00

+0,08%

Bạc New York

USD/ounce

23,98

-0,01

-0,05%

Bạc TOCOM

JPY/g

105,80

+0,10

+0,09%

Bạch kim

USD/ounce

1.008,37

-1,34

-0,13%

Palađi

USD/ounce

1.398,20

+0,62

+0,04%

Đồng New York

US cent/lb

371,00

-0,10

-0,03%

Đồng LME

USD/tấn

8.243,50

+154,50

+1,91%

Nhôm LME

USD/tấn

2.282,50

+36,50

+1,63%

Kẽm LME

USD/tấn

2.267,00

+18,50

+0,82%

Thiếc LME

USD/tấn

25.437,00

-17,00

-0,07%

Ngô

US cent/bushel

592,50

-1,50

-0,25%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

610,75

+16,50

+2,78%

Lúa mạch

US cent/bushel

339,00

0,00

0,00%

Gạo thô

USD/cwt

14,79

+0,07

+0,48%

Đậu tương

US cent/bushel

1.329,50

+29,75

+2,29%

Khô đậu tương

USD/tấn

401,40

+8,00

+2,03%

Dầu đậu tương

US cent/lb

47,86

+1,66

+3,59%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

633,70

+8,90

+1,42%

Cacao Mỹ

USD/tấn

3.008,00

+1,00

+0,03%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

183,05

+4,40

+2,46%

Đường thô

US cent/lb

24,88

-0,18

-0,72%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

283,55

+1,35

+0,48%

Bông

US cent/lb

81,58

+2,11

+2,66%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

--

--

--

Cao su TOCOM

JPY/kg

130,80

0,00

0,00%

Ethanol CME

USD/gallon

2,16

0,00

0,00%

Nguồn: Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)