Năng lượng: Giá dầu giảm tuần thứ 2 liên tiếp
Giá dầu phiên thứ Sáu (9/6) giảm hơn 1 USD/thùng, tính chung cả tuần giảm tuần thứ 2 liên tiếp do dữ liệu kinh tế Trung Quốc đáng thất vọng làm dấy lên nghi ngờ về tăng trưởng nhu cầu dầu mỏ toàn cầu sau khi Saudi Arabia cuối tuần qua quyết định cắt giảm sản lượng.
Kết thúc phiên này, dầu Brent giảm 1,17 USD, tương đương 1,5%, xuống mức 74,79 USD/thùng, dầu ngọt nhẹ của Mỹ (WTI) giảm 1,12 USD, tương đương 1,6%, xuống 70,17 USD/thùng.
Cả hai loại dầu đều giảm hơn 3 USD trong phiên thứ 5 khi một phương tiện truyền thông đưa tin Mỹ và Iran sắp đạt được một thỏa thuận hạt nhân, sẽ dẫn đến nhiều nguồn cung hơn. Tuy nhiên, sau đó cả 2 quốc gia phủ nhận thông tin này khiến giá hồi phục nhẹ và kết thúc phiên chỉ còn giảm hơn 1 USD/thùng.
Nhà phân tích Giovanni Staunovo của UBS cho biết: “Biến động giá hôm thứ Năm cho thấy thị trường dầu mong manh như thế nào”. Ông nói: "Việc Saudi Arabia cắt giảm sản lượng đã nâng giá lên một chút. Song, tin đồn về sự trở lại thị trường dầu thế giới của Iran như một nhà cung cấp đã khiến giá dầu sụt giảm mạnh hơn. Các nhà đầu tư lúc này sẽ giữ tâm lý chờ đợi cho đến khi lượng dầu tồn kho giảm rõ rệt hơn”.
Giá dầu đã tăng vào đầu tuần, được hỗ trợ bởi cam kết của Saudi Arabia vào cuối tuần trước là sẽ cắt giảm sản lượng nhiều hơn so với các thỏa thuận cắt giảm trước đó với Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ và các đồng minh.
Tuy nhiên, dự trữ nhiên liệu của Mỹ tăng và dữ liệu xuất khẩu yếu của Trung Quốc đã gây áp lực lên thị trường.
Rob Haworth, chiến lược gia đầu tư cao cấp của U.S. Bank cho biết: “Khi chúng ta tiến sâu hơn vào mùa lái xe - mùa hè - ở Bắc bán cầu, nhu cầu sẽ là yếu tố chính quyết định liệu lượng hàng tồn kho hạn chế có đẩy giá cao hơn hay nhu cầu yếu dẫn đến giá thấp hơn”.
Theo các chuyên gia, số liệu xuất khẩu yếu của Trung Quốc đã gây áp lực lên thị trường dầu mỏ.
Giá tại cổng nhà máy của Trung Quốc đã giảm với tốc độ nhanh nhất trong bảy năm vào tháng 5 và giảm nhanh hơn dự báo, do nhu cầu giảm sút đè nặng lên lĩnh vực sản xuất đang chậm lại và tạo ra một đám mây che phủ sự phục hồi kinh tế mong manh.
Một số nhà phân tích kỳ vọng giá dầu sẽ tăng nếu Cục Dự trữ Liên bang Mỹ tạm dừng tăng lãi suất tại cuộc họp tiếp theo vào ngày 13-14/6. Các nhà phân tích cho biết quyết định của Fed cũng có thể ảnh hưởng đến động thái tiếp theo của Saudi Arabia.
Nhà phân tích Craig Erlam của OANDA cho biết: “Điều quan trọng là bất chấp những thay đổi đó (Saudi Arabia, Mỹ-Iran) đối với sản lượng, dầu vẫn ở dưới mức 80 USD, chắc chắn sẽ khiến Saudi Arabia thất vọng”.
Kim loại quý: Giá vàng tuần qua tăng mạnh nhất kể từ đầu tháng 5
Giá vàng giảm trong phiên thứ Sáu (9/6) do đồng đô la mạnh hơn và lợi suất trái phiếu chính phủ Mỹ tăng, nhưng tính chung cả tuần tăng mạnh nhất kể từ đầu tháng 5 sau khi dữ liệu việc làm yếu củng cố đặt cược rằng Cục Dự trữ Liên bang để giữ nguyên lãi suất vào tuần tới.
Kết thúc phiên 9/6, giá vàng giao ngay giảm 0,3% xuống 1.961,39 USD/ounce, song tính chung cả tuần tăng 0,7%, nhờ giá tăng 1,5% trong phiên thứ Năm sau khi số đơn xin trợ cấp thất nghiệp hàng tuần của Mỹ tăng đột biến. Giá vàng kỳ hạn tháng 8/2023 trên sàn New York giảm 0,1% xuống 1.977,2 USD/ounce trong phiên cuối tuần.
Edward Moya, nhà phân tích thị trường cấp cao thuộc công ty tài chính OANDA, cho biết số liệu này cho thấy nền kinh tế Mỹ tiếp tục yếu đi là tin tốt cho vàng vì sẽ cho phép Fed giữ nguyên lãi suất. Nếu lạm phát tiếp tục giảm và nếu Fed đánh tín hiệu sẽ không tăng lãi suất vào cuộc họp tiếp theo, đó là cơ hội cho vàng tăng giá.
"Vàng đang dao động trong phạm vi 1.940-1.990 USD và có khả năng sẽ duy trì như vậy cho đến khi dữ liệu lạm phát và kết quả của Fed vào tuần tới", Tai Wong, một nhà giao dịch kim loại độc lập có trụ sở tại New York, cho biết.
Chỉ số đồng USD bật lên từ mức thấp nhất trong hai tuần, khiến vàng trở nên đắt đỏ đối với người mua ở nước ngoài, trong khi lợi tức trái phiếu kho bạc 10 năm cao hơn khiến những tài sản không sinh lời như vàng trở nên kém hấp dẫn hơn.
Dữ liệu của FedWatch ngày 9/6 cho thấy các thị trường hiện đặt cược 72% khả năng Fed sẽ ngừng tăng lãi suất vào tuần tới, nhưng khả năng tăng lãi suất trong tháng 7/2023 là 67%.
Các thương nhân chuẩn bị tinh thần đón nhận báo cáo lạm phát tháng 5 của Mỹ, sẽ công bố vào thứ Ba tuần tới, một ngày trước khi Fed công bố quyết định chính sách của mình.
Trung Quốc đã tăng dự trữ vàng tháng thứ 7 liên tiếp lên 67,27 triệu ounce vào cuối tháng 5/2023.
Nhà phân tích Suki Cooper của ngân hàng Standard Chartered lưu ý "số lượng các ngân hàng trung ương tìm cách bổ sung vàng trong 5 năm tới đang tăng mạnh".
Về những kim loại quý khác, giá palladium, được sử dụng trong các thiết bị kiểm soát khí thải trên ô tô, đã giảm xuống mức thấp nhất kể từ tháng 5/2019, dao động ở mức 1.324 USD/ounce.
Ông Wong cho biết giá palladium đã giảm xuống mức thấp nhất trong 4 năm sau dữ liệu yếu kém của Mỹ và Trung Quốc và dường như đang hướng đến một biên độ giá mới thấp hơn.
Giá bạc phiên cuối tuần tăng 0,1% lên 24,26 USD/ounce và hướng đến tuần giao dịch tốt nhất kể từ đầu tháng 4/2023, trong khi giá bạck kim giảm 0,1% xuống 1.009,30 USD/ounce.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng và sắt tăng tuần thứ 2 liên tiếp
Giá các kim loại cơ bản tăng trong tuần này với hy vọng về các biện pháp kích thích của Trung Quốc sau khi các cố vấn của chính phủ cho biết Bắc Kinh nên cắt giảm lãi suất như một phần của gói chính sách hỗ trợ trong bối cảnh nền kinh tế của đất nước giảm tốc.
Tại Mỹ, sự gia tăng số lượng đơn xin trợ cấp thất nghiệp hàng tuần đã làm dấy lên hy vọng lãi suất sắp đạt đỉnh.
Giá đồng tăng trong phiên cuối tuần, tính chung cả tuần tăng tuần thứ 2 liên tiếp do dự kiến nhu cầu của Trung Quốc được cải thiện và tồn trữ giảm.
Kết thúc phiên này, giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn London tăng 0,2% lên 8.361 USD/tấn, sau khi đạt mức cao nhất kể từ ngày 11/5/2023 (8.451 USD/tấn). Tính chung cả tuần, giá đồng tăng 1,5%, hồi phục đáng kể từ mức thấp nhất 6 tháng chạm tới hôm 24/5/2023 do dự kiến Trung Quốc sẽ đưa ra gói kích thích kinh tế.
Tồn trữ đồng tại các kho của sàn Thượng Hải giảm 11,7% xuống mức thấp nhất 6 tháng (76.473 tấn) trong khi tồn trữ đồng tại London tiếp tục giảm.
Trong số các kim loại khác, giá nhôm trên sàn LME phiên cuối tuần tăng 0,4% lên 2.263 USD/tấn. Thị trường theo dõi chặt chẽ dự báo mưa ở Vân Nam, khu vực sản xuất nhôm chính của Trung Quốc, nơi việc sản xuất thủy điện giảm khiến một phần công suất sản xuất kim loại phải ngừng hoạt động trong nhiều tháng.
Theo Shanghai Metals Market, việc sản xuất thủy điện ở Vân Nam đã được cải thiện và một lượng nhỏ công suất nhôm có thể hoạt động trở lại vào cuối tháng 6.
Giá thiếc trên sàn LME tăng 2,4% lên 26.440 USD/tấn, sau khi đạt mức cao nhất hơn 1 tháng (26.600 USD/tấn). Giá kẽm giảm 1,1% xuống còn 2.381 USD, chì tăng 0,9% lên 2.055 USD và niken tăng 0,3% lên 21.200 USD.
Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên tăng trong phiên cuối tuần, tính chung cả tuần cũng tăng tuần thứ 2 liên tiếp nhờ lạc quan về triển vọng nhu cầu khi các dấu hiệu cho thấy nước sản xuất thép hàng đầu thế giới (Trung Quốc) đang chuyển hướng chính sách sang hỗ trợ nền kinh tế.
Các ngân hàng quốc doanh Trung Quốc hôm thứ Năm đã hạ lãi suất tiền gửi bằng đồng nhân dân tệ, một động thái có thể giảm bớt áp lực lên tỷ suất lợi nhuận và giảm chi phí cho vay, mang lại một số cứu trợ cho khu vực tài chính và nền kinh tế nói chung.
Các nhà phân tích cho biết, biện pháp này mở ra cơ hội cho các biện pháp kích thích tiền tệ hơn nữa, bao gồm cắt giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc để hỗ trợ phát hành trái phiếu chính quyền địa phương, khi dữ liệu mới nhất cho thấy sự phục hồi kinh tế của Trung Quốc đang mất đà trong quý hai.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn Đại Liên phiên cuối tuần tăng 3,4% lên 812 CNY (114,03 USD)/tấn, chỉ dưới mức cao nhất kể từ ngày 20/4/2023 (812,5 CNY/tấn) trong phiên giao dịch. Tính chung cả tuần, giá tăng hơn 7%. Quặng sắt kỳ hạn tháng 7/2023 trên sàn Singapore tăng 2% lên 112,45 USD/tấn, trước đó trong phiên tăng lên 112,65 USD/tấn – cao nhất kể từ ngày 20/4/2023. Tính chung cả tuần, giá quặng sắt tăng hơn 8%.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây tăng 1,6%, tính chung cả tuần giá thép cây tăng hơn 3%, ngay cả khi nhu cầu dự kiến sẽ giảm trong thời gian tạm lắng vào mùa hè, khi hoạt động xây dựng của Trung Quốc bắt đầu vào tháng này. Giá thép cuộn cán nóng tăng 2%, thép cuộn tăng 3,2% và thép không gỉ tăng 0,2%.
Tồn kho thép của các thương nhân Trung Quốc theo khảo sát của công ty tư vấn Mysteel đã giảm tuần thứ năm liên tiếp từ ngày 2 đến ngày 8 tháng 6, giảm thêm 2,5% so với tuần trước.
Nông sản: Giá đồng loạt tăng trong tuần qua
Giá đậu tương Mỹ trong phiên cuối tuần tăng vượt mức cao nhất 3 tuần do giá dầu đậu tương tăng lên mức cao nhất 1 tháng.
Các nhà giao dịch cho biết hỗ trợ lan tỏa từ sự phục hồi của dầu đậu nành đã nâng giá đậu tương trong khi giá ngô kỳ hạn giảm.
Arlan Suderman, nhà kinh tế hàng hóa trưởng của công ty môi giới StoneX, cho biết: “Việc mua với giá hời của người dùng đầy cuối làm tăng giá dầu đậu tương khi các biểu đồ bắt đầu thay đổi, đồng thời cũng kích hoạt hoạt động đầu cơ bù đắp ngắn hạn”.
Trên sàn Chicago, giá đậu tương kỳ hạn tháng 7/2023 tăng 23-1/4 US cent lên 13,86-1/2 USD/bushel – cao nhất kể từ ngày 16/5/2023. Giá dầu đậu tương tăng lên mức cao nhất kể từ ngày 8/5/2023 và tăng 2,09 US cent lên 54,59 US cent/lb. Giá dầu đậu tương đã tưng hơn 22% kể từ ngày 31 tháng 5, khi giảm xuống mức thấp nhất kể từ tháng 2 năm 2021.
Giá lúa mì kỳ hạn tháng 7/2023 tăng 4 US cent lên 6,3-1/4 USD/bushel, trong khi giá ngô kỳ hạn tháng 7/2023 giảm 6 US cent xuống 6,04-1/4 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 7/2023 trên sàn ICE phiên cuối tuần giảm 0,1 US cent tương đương 0,4% xuống 25,38 US cent/lb, sau khi đạt mức cao nhất 2 tuần (26,15 US cent/lb). Tính chung cả tuần, giá đường thô tăng 2,6%. Giá đường trắng kỳ hạn tháng 8/2023 trên sàn London giảm 7,9 USD tương đương 1,1% xuống 680,9 USD/tấn.
Các đại lý cho biết đợt tăng giá gần đây phần lớn là do lo ngại về thời tiết, với hiện tượng thời tiết El Nino có thể dẫn đến thời tiết khô hạn hơn bình thường ở các nhà sản xuất lớn của châu Á như Ấn Độ và Thái Lan, yếu tố có thể hạn chế sản xuất. El Nino cũng có thể dẫn đến thời tiết ẩm ướt ở Trung-Nam Brazil, có khả năng làm gián đoạn giai đoạn cuối của vụ thu hoạch mía.
Đối với mặt hàng cà phê, giá robusta kỳ hạn trên sàn ICE đóng cửa giảm vào lúc đóng cửa phiên thứ Sáu sau khi thiết lập mức giá cao kỷ lục trước đó, kết thúc tuần với mức tăng 6% do nguồn cung khan hiếm.
Cụ thể, cà phê robusta kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn London giảm 24 USD tương đương 0,9% xuống 2.702 USD/tấn, sau khi có lúc đạt mức cao kỷ lục 2.790 USD/tấn. Trong khi đó, cà phê arabica kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn ICE giảm 3,7 US cent tương đương 1,9% xuống 1,8665 USD/lb, sau khi đạt mức cao nhất 3,5 tuần (1,9175 USD/lb). Tính chung cả tuần, giá arabica tăng 5%.
Các đại lý cho biết với mức độ tăng gần đây của thị trường, không có gì ngạc nhiên khi có một đợt giảm giá khiêm tốn đối với robusta. Họ lưu ý rằng nguồn cung khan hiếm, với sản lượng ở Indonesia dưới mức mong đợi trong khi hiện tượng thời tiết El Nino có nguy cơ hạn chế sản xuất ở Việt Nam, nước trồng cà phê robusta hàng đầu thế giới.
Cơ quan Khí quyển và Đại dương Quốc gia Mỹ cho biết hiện tượng thời tiết El Nino đã và đang xảy ra, gây rủi ro cho sản xuất cà phê, chủ yếu ở châu Á.
Xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong 5 tháng đầu năm 2023 đạt 866.121 tấn, giảm 3,9% so với cùng kỳ năm trước.
Giá cao su trên thị trường Nhật Bản giảm trong phiên cuối tuần do nhu cầu yếu tại Trung Quốc, nhưng tính chung cả tuần tăng tuần thứ 2 liên tiếp.
Kết thúc phiên này, cao su kỳ hạn tháng 11/2023 trên sàn Osaka giảm 0,9 JPY tương đương 0,4% xuống 212 JPY (1,52 USD)/kg; tính chung cả tuần, giá tăng 1%. Giá cao su kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn Thượng Hải giảm 30 CNY xuống 12.060 CNY (1.693,08 USD)/tấn; cao su kỳ hạn tháng 7/2023 trên sàn Singapore không thay đổi ở mức 133,7 US cent/kg.
Cao su kỳ hạn của Nhật Bản có tuần tăng thứ hai liên tiếp, ngay cả khi giá chuẩn đóng cửa thấp
Farah Miller, Giám đốc điều hành của Helixtap Technologies, một công ty dữ liệu độc lập tập trung vào cao su, cho biết diễn biến giá tuần này chủ yếu là do kỹ thuật và sẽ duy trì như vậy cho đến khi nhu cầu của Trung Quốc thay đổi. Ông Miller cho biết, mức tăng vào giữa tuần là một sự điều chỉnh sau khi bị bán quá mức, thu hẹp chênh lệch giữa giá vật chất và giá tương lai.
Bộ thương mại Trung Quốc hôm thứ Năm đã công bố một chiến dịch xúc tiến mua ô tô sẽ kéo dài từ tháng 6 đến tháng 12. Thông báo này được đưa ra ngay sau khi dữ liệu cho thấy doanh số bán xe chở khách ở Trung Quốc đã tăng 7,3% trong tháng 5 so với tháng 4, cao hơn trong tháng nhưng khác xa với kỳ vọng phục hồi mạnh mẽ mà các nhà hoạch định chính sách mong đợi.
Giá hàng hóa thế giới:
|
ĐVT
|
Giá 2/6
|
Giá 9/6
|
9/6 so với 8/6
|
9/6 so với 8/6 (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
71,74
|
70,17
|
-1,12
|
-1,57%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
76,13
|
74,79
|
-1,17
|
-1,54%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
63.900,00
|
65.800,00
|
-880,00
|
-1,32%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,17
|
2,25
|
-0,10
|
-4,17%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
250,07
|
259,32
|
-1,95
|
-0,75%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
235,69
|
236,10
|
-2,88
|
-1,21%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
695,25
|
708,00
|
+4,00
|
+0,57%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
75.100,00
|
75.100,00
|
0,00
|
0,00%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.969,60
|
1.977,20
|
-1,40
|
-0,07%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
8.753,00
|
8.772,00
|
-12,00
|
-0,14%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
23,75
|
24,41
|
+0,06
|
+0,25%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
107,00
|
106,50
|
-1,30
|
-1,21%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
1.007,95
|
1.011,70
|
-3,02
|
-0,30%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.424,29
|
1.328,51
|
-35,14
|
-2,58%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
372,75
|
378,90
|
-0,60
|
-0,16%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
8.237,00
|
8.371,50
|
+24,00
|
+0,29%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
2.263,50
|
2.268,00
|
+13,50
|
+0,60%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.306,50
|
2.404,50
|
-4,00
|
-0,17%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
25.651,00
|
26.502,00
|
+685,00
|
+2,65%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
609,00
|
530,50
|
-2,50
|
-0,47%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
619,00
|
630,25
|
+4,00
|
+0,64%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
337,50
|
358,50
|
+2,25
|
+0,63%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
15,04
|
15,46
|
+0,08
|
+0,49%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.352,50
|
1.204,25
|
+15,25
|
+1,28%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
397,80
|
366,60
|
+1,10
|
+0,30%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
49,50
|
51,96
|
+1,72
|
+3,42%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
637,60
|
664,90
|
+8,60
|
+1,31%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
3.026,00
|
3.175,00
|
+38,00
|
+1,21%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
180,30
|
186,65
|
-3,70
|
-1,94%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
24,73
|
25,02
|
-0,07
|
-0,28%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
279,90
|
257,95
|
-0,40
|
-0,15%
|
Bông
|
US cent/lb
|
81,85
|
81,82
|
+0,19
|
+0,23%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
--
|
--
|
--
|
--
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
130,80
|
133,00
|
-0,20
|
-0,15%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
2,16
|
2,16
|
0,00
|
0,00%
|