Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm khá mạnh vào đầu phiên, sau đó hồi phục chút ít vào cuối phiên sau khi cả Mỹ và Iran đều phủ nhận một thông tin rằng họ đã tiến gần đến một thỏa thuận hạt nhân. Người phát ngôn của Hội đồng An ninh Quốc gia Nhà Trắng gọi báo cáo là "sai sự thật và gây hiểu lầm".
Kết thúc phiên này, giá dầu Brent giảm 99 US cent, tương đương 1,3%, xuống 75,96 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 1,24 USD, tương đương 1,7%, xuống 71,29 USD/thùng.
John Kilduff, đối tác của Again Capital LLC ở New York, cho biết: “Nếu không có thỏa thuận với Iran thì chúng tôi sẽ quay lại vị trí trước đây, tập trung nhiều hơn vào nhu cầu nhiên liệu”.
Giá dầu giảm sau khi Mỹ báo cáo tồn trữ xăng cao hơn so với dự kiến, làm dấy lên lo ngại nhu cầu nhiên liệu của Mỹ, với mùa lái xe cao điểm vào mùa hè đang diễn ra.
Mối lo ngại về nhu cầu làm lu mờ triển vọng nguồn cung thắt chặt sau khi Saudi Arabia cam kết vào cuộc họp OPEC+ cuối tuần qua sẽ cắt giảm sản lượng thêm 1 triệu thùng/ngày (bpd) trong tháng 7/2023. Việc cắt giảm đơn phương đó bổ sung cho thỏa thuận rộng lớn hơn của nhóm nhằm mở rộng các hạn chế cung cấp hiện tại vào năm 2024.
Nhà phân tích Tamas Varga của công ty môi giới PVM cho biết, giá dầu có thể tăng nếu Cục Dự trữ Liên bang Mỹ bỏ qua đợt tăng lãi suất tại cuộc họp tiếp theo vào ngày 13-14/6. Các nhà kinh tế tham gia khảo sát của Reuters cho rằng sẽ không có quyết định tăng lãi suất nào tại cuộc họp sắp tới.
Đồng đô la Mỹ yếu hơn một chút vào thứ Năm, khiến dầu rẻ hơn đối với những người mua bằng các loại tiền tệ khác.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng hơn 1%, do đồng USD và lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ giảm sau dữ liệu cho thấy số đơn xin trợ cấp thất nghiệp của Mỹ tăng tuần trước tăng, củng cố kỳ vọng Fed sẽ tạm dừng chu kỳ tăng lãi suất.
Kết thúc phiên này, giá vàng giao ngay tăng 1,2% lên 1.962,49 USD/ounce; vàng kỳ hạn tháng 8/2023 trên sàn New York tăng 1% lên 1.978,6 USD/ounce.
Số lượng người Mỹ nộp đơn xin trợ cấp thất nghiệp mới trong tuần trước tăng, cho thấy thị trường lao động đang chậm lại, trong bối cảnh rủi ro suy thoái kinh tế gia tăng.
Edward Moya, nhà phân tích thị trường cấp cao của OANDA, cho biết: “Dữ liệu này cho thấy nền kinh tế Mỹ tiếp tục yếu đi, đây là tin tốt cho vàng vì nó sẽ cho phép Fed giữ nguyên lãi suất”.
"Nếu lạm phát của chúng ta giảm nhẹ hơn nữa, nếu Fed giữ nguyên và họ thực sự không báo hiệu khả năng tăng lãi suất mạnh mẽ trong cuộc họp tiếp theo, thì đó là cơ hội để vàng tăng cao hơn."
Sau số liệu việc làm, đồng USD giảm 0,7% xuống mức thấp nhất 2 tuần so với giỏ các đồng tiền chủ chốt, khiến vàng trở nên rẻ hơn khi mua bằng tiền tệ khác, trong khi lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm cũng giảm.
Sau dữ liệu việc làm, đồng đô la  giảm 0,7% xuống mức thấp nhất trong hai tuần so với các đối thủ của nó, khiến vàng trở nên rẻ hơn đối với những người nắm giữ tiền tệ khác, trong khi lãi suất trái phiếu kho bạc kỳ hạn 10 năm của Mỹ giảm. Mỹ/USD/
Theo công cụ Fedwatch của CME, những người tham gia thị trường tiền tệ hiện nhận thấy 71% khả năng ngân hàng trung ương Mỹ sẽ bỏ qua việc tăng lãi suất tại cuộc họp chính sách vào tuần tới.
Báo cáo lạm phát tiêu dùng tháng 5 của Mỹ, dự kiến công bố vào ngày 13 tháng 6, có thể cung cấp thông tin rõ ràng hơn về sức khỏe của nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Về những kim loại quý khác, giá bạc phiên này tăng 3,4% lên 24,24 USD/ounce, trong khi bạch kim giảm 0,7% xuống 1.010,93 USD. Giá palladium giảm 2,7% xuống 1.351,9 USD/ounce, sau khi giảm xuống mức thấp nhất kể từ tháng 6/2019 (1.348,74 USD/ounce) trong đầu phiên giao dịch.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng tăng sau số liệu cho thấy số đơn xin trợ cấp thất nghiệp hàng tuần của Mỹ tăng, khiến đồng USD giảm và kim loại được định giá bằng đồng USD hấp dẫn hơn so với tiền tệ khác. Số lượng người Mỹ nộp đơn xin trợ cấp thất nghiệp mới đã tăng vọt vào tuần trước, cho thấy thị trường lao động đang chậm lại khi nguy cơ suy thoái kinh tế gia tăng.
Kết thúc phiên, giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn London tăng 0,5% lên 8.333,5 USD/tấn. Như vậy, giá đồng đã tăng 6% từ mức thấp nhất 6 tháng chạm tới hôm 24/5/2023.
Chỉ số đồng USD giảm 0,7% từ mức cao nhất 3 tháng, thị trường chuyển tập trung sang số liệu lạm phát và quyết định lãi suất của Fed vào tuần tới.
Nhà phân tích Sudakshina Unnikrishnan của Standard Chartered cho biết: “Tâm lý đối với đồng vẫn còn lẫn lộn: đồng đô la mạnh lên và mối lo ngại về tăng trưởng của Trung Quốc vẫn còn, nhưng tồn kho đồng LME đã bắt đầu giảm, kèm theo sự gia tăng của các chứng quyền bị hủy bỏ”. Dự trữ đồng có bảo hành trên sàn LME đã tăng 775 tấn lên 44.525 tấn vào thứ Năm.
Về các kim loại cơ bản khác, giá nhôm phiên này tăng 1,4% lên 2.251 USD/tấn trong khi dự trữ có bảo hành ở sàn LME giảm xuống mức thấp nhất trong 4 tháng sau khi MALSTX-TOTAL hủy hợp đồng mới. Giá kẽm tăng 0,2% lên 2.403 USD, chì giảm 0,1% xuống 2.042 USD, niken giảm 1,8% ở mức 21.035 USD và thiếc ổn định ở mức 25.645 USD.
Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên tăng lên mức cao mới của 7 tuần, trong khi giá quặng sắt tại Singapore tăng phiên thứ 7 liên tiếp do các ngân hàng lớn của Trung Quốc cắt giảm lãi suất tiền gửi, động thái được coi là hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.
Kết thúc phiên này, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn Đại Liên tăng 2,7% lên 791 CNY (110,91 USD)/tấn. Trong đầu phiên giao dịch, giá quặng sắt đạt 793,5 CNY/tấn – cao nhất kể từ ngày 18/4/2023; quặng sắt kỳ hạn tháng 7/2023 trên sàn Singapore tăng 1,5% lên 109,5 USD/tấn, trong phiên có lúc đạt 109,9 USD/tấn – cao nhất kể từ ngày 21/4/2023.
Quặng sắt chủ yếu tăng giá nhờ những đồn đoán kể từ cuối tháng 5 về việc nhà sản xuất thép hàng đầu thế giới - Trung Quốc - tung ra các biện pháp kích thích bổ sung để khôi phục lĩnh vực bất động sản đang gặp khó khăn và nền kinh tế rộng lớn hơn, bất chấp cảnh báo của các nhà phân tích rằng lợi nhuận có thể không được duy trì nếu không có các biện pháp rộng rãi và hiệu quả.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây tăng 0,6%, thép cuộn cán nóng tăng 0,4%, thép cuộn tăng 1,1%, trong khi thép không gỉ giảm 0,2%. Nhu cầu thép tại Trung Quốc dự kiến sẽ suy yếu trong thời gian tạm lắng vào mùa hè.
Trên thị trường nông sản, giá lúa mì Mỹ tăng do lo ngại gián đoạn nguồn cung bởi cuộc xung đột Nga- Ukraine. Giá ngô và đậu tương cũng tăng do dự đoán nguồn cung sẽ vẫn thắt chặt mặc dù nhu cầu xuất khẩu đối với nguồn cung của Mỹ suy giảm trong bối cảnh dự báo khô hạn hơn ở vùng Trung Tây Mỹ.
Trên sàn Chicago, giá lúa mì đỏ, mềm vụ đông kỳ hạn tháng 7/2023 tăng 9-1/2 US cent lên 6,26-1/4 USD/bushel. Giá đậu tương kỳ hạn tháng 7/2023 tăng 2-1/2 US cent lên 13,63-1/4 USD/bushel và giá ngô giao cùng kỳ hạn tăng 6 US cent lên 6,1-1/4 USD/bushel.
Giá đường thô tăng 4% trên Sàn giao dịch liên lục địa vào thứ Năm sau khi một báo cáo cho biết mô hình thời tiết El Nino đã xảy ra, trong bối cảnh thiếu doanh số bán hàng từ Brazil và các nước Mỹ Latinh khác.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 7/2023 trên sàn ICE tăng 0,98 US cent tương đương 4% lên 25,48 US cent/lb, hồi phục từ mức thấp nhất 6,5 tuần (24,23 US cent/lb) trong phiên ngày 6/6/2023. Giá đường trắng kỳ hạn tháng 8/2023 trên sàn London tăng 19,6 USD tương đương 2,9% lên 688,8 USD/tấn.
Các thương nhân cho biết một số người tiêu dùng đường đang chờ xem giá có giảm thêm nữa không, và có thể đã thay đổi dự đoán của họ vì El Nino dường như chắc chắn sẽ xảy ra. Thị trường dự báo sẽ có mưa ở vùng trồng mía chính của Brazil, có thể làm gián đoạn vụ thu hoạch mía.
Giá cà phê tăng mạnh, với cà phê robusta đạt mức cao nhất mọi thời đại. Trên sàn London, giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 9/2023 tăng 90 USD tương đương 3,4% lên 2.726 USD/tấn, sau khi đạt mức cao kỷ lục 2.734 USD/tấn. Trong khi đó trên sàn New York, giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 9/2023 tăng 8,65 US cent tương đương 4,8% lên 1,9035 USD/lb.
Trung tâm Dự báo Khí hậu của Cơ quan Khí quyển và Đại dương Quốc gia Mỹ hôm thứ Năm cho biết kiểu thời tiết El Nino đã xảy ra, gây rủi ro cho sản xuất cà phê, chủ yếu ở châu Á.
Các đại lý cho biết nhu cầu nội địa mạnh ở Brazil cũng đang hạn chế xuất khẩu cà phê robusta mới thu hoạch của nước này.
Giá cao su trên thị trường Nhật Bản giảm từ mức cao nhất gần 3 tháng trong phiên trước đó do giảm bớt kỳ vọng về các biện pháp kích thích tại Trung Quốc và đồng yên tăng gây áp lực thị trường.
Kết thúc phiên này, cao su kỳ hạn tháng 11/2023 trên sàn Osaka giảm 1,3 JPY tương đương 0,6% xuống 212,9 JPY (1,52 USD)/kg. Trong khi đó, giá cao su kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn Thượng Hải tăng 115 CNY lên 12.130 CNY (1.700,79 USD)/tấn. Giá cao su kỳ hạn tháng 7/2023 trên sàn Singapore giảm 0,2% xuống 133,7 US cent/kg.
Giá cao su đã tăng trong phiên trước đó do đặt cược vào các biện pháp kích thích của Trung Quốc nhưng điều đó đã nhanh chóng bị xem xét lại, một thương nhân có trụ sở tại Singapore cho biết thêm rằng thị trường đã quay trở lại tình trạng lấp lửng, chờ đợi tín hiệu mới.
Dữ liệu sửa đổi cho thấy nền kinh tế Nhật Bản trong tháng 1 đến tháng 3 đã tăng trưởng tốt hơn so với dự kiến ban đầu.
Giá hàng hóa thế giới:

 

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

70,52

-2,01

-2,77%

Dầu Brent

USD/thùng

75,04

-1,91

-2,48%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

65.800,00

-880,00

-1,32%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,32

-0,01

-0,39%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

256,82

-7,30

-2,76%

Dầu đốt

US cent/gallon

235,49

-4,69

-1,95%

Dầu khí

USD/tấn

694,50

-16,00

-2,25%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

75.100,00

0,00

0,00%

Vàng New York

USD/ounce

1.982,70

+24,30

+1,24%

Vàng TOCOM

JPY/g

8.771,00

+41,00

+0,47%

Bạc New York

USD/ounce

24,40

+0,87

+3,68%

Bạc TOCOM

JPY/g

107,10

+2,20

+2,10%

Bạch kim

USD/ounce

1.013,52

-8,39

-0,82%

Palađi

USD/ounce

1.366,57

-29,98

-2,15%

Đồng New York

US cent/lb

379,25

+3,65

+0,97%

Đồng LME

USD/tấn

8.293,50

-45,50

-0,55%

Nhôm LME

USD/tấn

2.219,00

+9,00

+0,41%

Kẽm LME

USD/tấn

2.398,50

+79,50

+3,43%

Thiếc LME

USD/tấn

25.650,00

+32,00

+0,12%

Ngô

US cent/bushel

609,75

+5,50

+0,91%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

625,75

+9,00

+1,46%

Lúa mạch

US cent/bushel

359,50

+15,25

+4,43%

Gạo thô

USD/cwt

15,33

+0,09

+0,56%

Đậu tương

US cent/bushel

1.364,00

+3,25

+0,24%

Khô đậu tương

USD/tấn

404,80

-0,40

-0,10%

Dầu đậu tương

US cent/lb

51,96

+1,49

+2,95%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

649,20

+1,80

+0,28%

Cacao Mỹ

USD/tấn

3.151,00

+60,00

+1,94%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

190,55

+8,85

+4,87%

Đường thô

US cent/lb

24,99

+0,75

+3,09%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

258,30

+0,65

+0,25%

Bông

US cent/lb

81,81

+0,58

+0,71%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

--

--

--

Cao su TOCOM

JPY/kg

133,20

-0,20

-0,15%

Ethanol CME

USD/gallon

2,16

0,00

0,00%

Nguồn: Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)