Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng khoảng 1% do kế hoạch cắt giảm sản lượng sâu của Saudi Arabia mặc dù tồn trữ nhiên liệu của Mỹ tăng và số liệu xuất khẩu của Trung Quốc suy yếu.
Kết thúc phiên, giá dầu thô Brent tăng 66 US cent, tương đương 0,9%, lên 76,95 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ của Mỹ (WTI) tăng 79 US cent, tương đương 1,1%, lên 72,53 USD/thùng.
Cả hai loại dầu đều tăng hơn 1 USD/thùng trong phiên thứ Hai (5/6) sau khi Saudi Arabia cuối tuần qua quyết định cắt giảm sản lượng thêm 1 triệu thùng/ngày (bpd) xuống 9 triệu bpd trong tháng 7/2023.
Dennis Kissler, phó chủ tịch giao dịch cấp cao của BOK Financial, cho biết: "Các hợp đồng dầu mỏ kỳ hạn tương lai dường như đang ở trong một 'cuộc chiến giằng co' với nhu cầu sản xuất chậm lại và nhu cầu dầu diesel giảm đi, làm giảm tác động từ việc cắt giảm sản lượng dự kiến đến từ OPEC và Saudi".
Cơ quan Thông tin Năng lượng (EIA) cho biết, tồn trữ dầu thô của Mỹ giảm 450.000 thùng so với ước tính tăng 1 triệu thùng. Tồn trữ dầu diesel tăng 5,1 triệu thùng, trong khi thị trường ước tính tăng 1,33 triệu thùng. Tồn trữ xăng cao hơn so với dự kiến ở mức 2,8 triệu thùng, so với ước tính tăng 880.000 thùng.
Dự trữ nhiên liệu tăng bất ngờ làm dấy lên lo ngại về mức tiêu thụ của quốc gia sử dụng dầu hàng đầu thế giới, đặc biệt khi nhu cầu đi lại tăng trong dịp cuối tuần trong dịp lễ Tưởng niệm.
Vào đầu phiên, giá dầu giảm do dữ liệu kinh tế yếu kém của Trung Quốc. Xuất khẩu của Trung Quốc trong tháng 5/2023 giảm nhanh hơn so với dự kiến và nhập khẩu giảm, mặc dù với tốc độ chậm hơn, do các nhà sản xuất khó khăn trong việc tìm kiếm nhu cầu từ nước ngoài và tiêu thụ nội địa vẫn trì trệ.
Dữ liệu cho thấy nhập khẩu dầu thô của Trung Quốc, nước nhập khẩu dầu lớn nhất thế giới, trong tháng 5/2023 tăng lên mức cao thứ 3 hàng tháng do các nhà máy lọc dầu đẩy mạnh tồn trữ.
Ngoài ra, một yếu tố khác cũng hỗ trợ giá, đó là đồng đô la giảm xuống khi cơ hội tăng lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang vào tuần tới mờ dần. Đồng bạc xanh yếu hơn hỗ trợ nhu cầu khi dầu trở nên rẻ hơn đối với người mua nước ngoài.
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế cho biết, tăng trưởng kinh tế toàn cầu sẽ chỉ tăng vừa phải trong năm tới khi toàn bộ tác động của việc tăng lãi suất của các ngân hàng trung ương bộc lộ hết. Đây là dấu hiệu mới nhất cho thấy tác động của việc thắt chặt tiền tệ.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm 1% do lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ tăng, trong khi các nhà đầu tư chờ đợi số liệu lạm phát và cuộc họp chính sách của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ vào tuần tới, để làm rõ hơn về lộ trình lãi suất của Mỹ.
Kết thúc phihên, giá vàng giao ngay giảm 1,1% xuống 1.942,32 USD/ounce; vàng kỳ hạn tháng 8/2023 trên sàn New York giảm 1,2% xuống 1.958,4 USD/ounce.
Giá bạc phiên này giảm 0,5% xuống 23,47 USD/ounce, bạch kim giảm 1,2% xuống 1.019,11 USD, trong khi palladium giảm 1,6% xuống 1.391,16 USD.
Lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm tăng lên mức cao nhất hơn 1 tuần, sau khi Ngân hàng Canada tăng lãi suất, động thái có thể giúp Fed duy trì quan điểm khi các nhà hoạch định chính sách họp vào tuần tới.
David Meger, giám đốc giao dịch kim loại của High Ridge Futures, cho biết: “Lợi suất vẫn tương đối cao, tạo áp lực nhẹ lên thị trường vàng”. "Rõ ràng lạm phát vẫn là tâm điểm chính của thị trường này. Tại thời điểm này, người ta kỳ vọng rằng Fed sẽ tạm dừng. Tuy nhiên, nếu những con số lạm phát đó vẫn ở mức cực kỳ cao, bạn có thể thấy triển vọng sẽ thay đổi."
Báo cáo lạm phát tiêu dùng tháng 5 của Mỹ, công bố vào ngày 13 tháng 6, trước cuộc họp của Fed, sẽ cung cấp cho các nhà đầu tư thông tin rõ ràng hơn về sức khỏe của nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Bộ trưởng Tài chính Mỹ Janet Yellen cho biết nền kinh tế Mỹ đang mạnh trong bối cảnh chi tiêu của người tiêu dùng mạnh mẽ nhưng một số lĩnh vực đang chậm lại, đồng thời cho biết thêm rằng bà kỳ vọng sẽ tiếp tục đạt được tiến bộ trong việc giảm lạm phát trong hai năm tới.
Kết quả thăm dò của Reuters cho thấy các nhà kinh tế dự kiến Fed sẽ không tăng lãi suất lần đầu tiên sau hơn một năm tại cuộc họp ngày 13-14/6. Giá vàng rất nhạy cảm với việc tăng lãi suất của Mỹ, vì những điều này làm tăng chi phí cơ hội của việc nắm giữ vàng thỏi không mang lại lợi tức.
Dữ liệu từ Trung Quốc cho thấy xuất khẩu giảm nhanh hơn nhiều so với dự kiến trong tháng 5, cho thấy nền kinh tế toàn cầu đang chậm lại có thể làm giảm nhu cầu đối với kim loại quý, Jim Wyckoff, nhà phân tích cao cấp của Kitco, cho biết.
Trên thị tròng kim loại công nghiệp, giá đồng đảo chiều giảm trở lại sau khi đạt mức cao nhất gần 4 tuần, do lo ngại tăng trưởng kinh tế toàn cầu chậm lại, làm lu mờ kỳ vọng Trung Quốc sẽ thực hiện các biện pháp kích thích kinh tế.
Kết thúc phiên này, giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn London giảm 0,5% xuống 8.297 USD/tấn, sau khi đạt mức cao nhất kể từ ngày 11/5/2023 (8.418 USD/tấn).
Dan Smith, người đứng đầu bộ phận nghiên cứu của Amalgamated Metal Trading, cho biết: “Việc sản xuất không hoạt động tốt ở Trung Quốc và nhiều nơi trên thế giới, nhưng nhu cầu đồng đang ở mức khá tốt”.
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) cho biết tăng trưởng kinh tế toàn cầu sẽ chỉ tăng khiêm tốn trong năm tới, do ảnh hưởng của việc tăng lãi suất của Ngân hàng trung ương.
Hy vọng Trung Quốc kích thích kinh tế đã được thổi bùng bởi dữ liệu cho thấy tổng xuất khẩu của Trung Quốc giảm nhanh hơn nhiều so với dự kiến trong tháng 5 trong khi nhập khẩu kéo dài sự sụt giảm, cho thấy một triển vọng ảm đạm đối với nhu cầu toàn cầu.
Tuy nhiên, có thông tin cảnh báo rằng các biện pháp hỗ trợ của Trung Quốc đối với thị trường bất động sản sẽ cần "một thời gian" để tạo ra tác động. Ông Smith cho biết nhu cầu đồng tăng cao hơn nhiều so với dự kiến mặc dù dữ liệu cho thấy nhập khẩu đồng tháng 5 của Trung Quốc giảm 4,6% so với một năm trước đó.
Ông cho biết: “Nhập khẩu đồng giảm, nhưng một phần là do nguồn cung trong nước tăng lên chứ không phải nhu cầu đặc biệt yếu”.
"Chúng tôi nghe nói trong ngành điện, rất nhiều công ty sản xuất dây và cáp đồng đang nhận được đơn đặt hàng tốt từ chính phủ để đẩy mạnh triển khai lưới điện."
Về các kim loại cơ bản khác, giá nhôm trên sàn LME tăng 0,5% lên 2.221 USD/tấn, kẽm tăng 2,9% lên 2.385,50 USD, chì tăng 0,7% lên 2.040 USD, niken tăng 2,4% lên 21.465 USD và thiếc tăng 0,3% lên 25.690 USD.
Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên tăng lên mức cao nhất gần 7 tuần lúc đầu phiên giao dịch do các thương nhân đánh giá triển vọng kích thích bổ sung từ nước sản xuất thép hàng đầu – Trung Quốc. Tuy nhiên, về cuối phiên, giá giảm nhẹ trở lại.
Kết thúc phiên, quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn Đại Liên tăng 0,1% lên 770 CNY (108,05 USD)/tấn, sau khi tăng lên mức cao nhất 7 tuần (782,5 CNY/tấn) lúc g đầu phiên giao dịch. Quặng sắt kỳ hạn tháng 7/2023 trên sàn Singapore tăng 0,3% lên 106,7 USD/tấn, rời khỏi mức cao 108,05 USD/tấn trong phiên giao dịch.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây giảm 0,9%, thép cuộn cán nóng giảm 1,6%, thép cuộn giảm 1%, trong khi đó thép không gỉ tăng 0,2%.
Những đồn đoán vào cuối tháng 5 về việc Trung Quốc triển khai các biện pháp bổ sung để khôi phục lĩnh vực bất động sản đang gặp khó khăn và thúc đẩy nhu cầu trong nước đã nâng giá quặng sắt tăng khoảng 10% trong tháng này.
Trong số các thông tin mới nhất là báo cáo của Tạp chí Chứng khoán Trung Quốc hôm thứ Ba trích lời các cố vấn chính sách và nhà kinh tế cho biết Trung Quốc có thể sẽ tiếp tục cắt giảm tỷ lệ dự trữ và lãi suất của các ngân hàng trong nửa cuối năm nay để hỗ trợ nền kinh tế.
Các nhà phân tích của Citi cho biết: “Thị trường có xu hướng dựa vào hy vọng về một gói kích thích khi các chỉ số vĩ mô từ Trung Quốc gây thất vọng”.
Trên thị trường nông sản, giá lúa mì Mỹ giảm, giá ngô cũng giảm do dự báo về một số cơn mưa ở các khu vực trồng trọt chính của vùng Trung Tây vào cuối tuần này. Giá đậu tương kết thúc trái chiều.
Trên sàn Chicago, giá lúa mì đỏ mềm, vụ đông kỳ hạn tháng 7/2023 giảm 11 US cent xuống 6,16-3/4 USD/bushel, giá lúa mì đỏ cứng vụ đông giảm 4% và giá lúa mì vụ xuân giảm 2,8%. Giá ngô kỳ hạn tháng 7/2023 giảm 3-3/4 US cent xuống 6,04-1/4 USD/bushel, trong khi đó giá đậu tương giao cùng kỳ hạn tăng 7-1/2 US cent lên 13,6-3/4 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 7/2023 trên sàn ICE giảm 0,08 US cent, tương đương 0,3%, xuống 24,5 US cent/lb, sau khi chạm mức thấp nhất 6,5 tuần (24,33 US cent/lb) trong phiên ngày 6/6/2023; đường trắng kỳ hạn tháng 8/2023 trên sàn London giảm 1,7 USD tương đương 0,3% xuống 669,2 USD/tấn.
Các đại lý cho biết hiện tại các quỹ đã thanh lý xong các vị thế mua của họ, nhưng nói thêm rằng họ vẫn nghi ngờ khả năng giá tăng đáng kể. Rabobank cho biết có khả năng giá giảm hơn nữa do những lo ngại liên quan đến hiện tượng thời tiết El Nino có thể xảy ra và triển vọng thu hoạch có vẻ tốt ở nhà sản xuất hàng đầu thế giới, Brazil.
Giá cà phê kỳ hạn tăng vào thứ Tư do nguồn cung tại nhà sản xuất hàng đầu Brazil vẫn khan hiếm. Theo đó, cà phê robusta kỳ hạn tháng 7/2023 trên sàn London tăng 53 USD tương đương 2,1% lên 2.636 USD/tấn; cà phê arabica kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn ICE tăng 2,15 US cent tương đương 1,2% lên 1,817 USD/lb.
Rabobank cho biết cà phê robusta sẽ giao dịch trong khoảng 2.480-2.750 USD, với mức cao nhất trong dự báo của họ là mức cao kỷ lục mới do xuất khẩu từ Brazil vẫn yếu và nhu cầu nội địa ổn định.
Cepea/Esalq của Brazil, một trung tâm nghiên cứu tại Đại học Sao Paulo, cho biết giá tại thị trường nội địa của Brazil đang tăng lên, trong bối cảnh lo ngại vụ thu hoạch sẽ thất vọng.
Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) dự kiến nông dân ở Brazil sẽ thu hoạch thêm 12% arabica trong niên vụ 2023/24 và thêm 5% đối với robusta.
Giá cao su trên thị trường Nhật Bản tăng lên mức cao nhất gần 3 tháng do các thương nhân kỳ vọng gói kích thích từ Trung Quốc trong bối cảnh hàng loạt số liệu gây thất vọng.
Kết thúc phiên này, cao su kỳ hạn tháng 11/2023 trên sàn Osaka tăng 3,6 JPY tương đương 1,7% lên 214,2 JPY (1,54 USD)/kg; cao su kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn Thượng Hải tăng 230 CNY lên 12.085 CNY (1.695,85 USD)/tấn; trong khi cao su kỳ hạn tháng 7/2023 trên sàn Singapore tăng 1,9% lên 134,6 US cent/kg.
Giá hàng hóa thế giới:

 

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

72,70

+0,96

+1,34%

Dầu Brent

USD/thùng

77,12

+0,83

+1,09%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

65.200,00

-900,00

-1,36%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,32

+0,06

+2,56%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

263,98

+7,55

+2,94%

Dầu đốt

US cent/gallon

240,26

+3,48

+1,47%

Dầu khí

USD/tấn

709,25

+8,50

+1,21%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

75.100,00

0,00

0,00%

Vàng New York

USD/ounce

1.959,70

-21,80

-1,10%

Vàng TOCOM

JPY/g

8.753,00

-14,00

-0,16%

Bạc New York

USD/ounce

23,58

-0,09

-0,40%

Bạc TOCOM

JPY/g

105,60

+0,50

+0,48%

Bạch kim

USD/ounce

1.023,13

-14,34

-1,38%

Palađi

USD/ounce

1.398,50

-15,67

-1,11%

Đồng New York

US cent/lb

375,45

-1,40

-0,37%

Đồng LME

USD/tấn

8.339,00

+4,00

+0,05%

Nhôm LME

USD/tấn

2.210,00

-34,00

-1,52%

Kẽm LME

USD/tấn

2.319,00

+30,50

+1,33%

Thiếc LME

USD/tấn

25.618,00

+53,00

+0,21%

Ngô

US cent/bushel

604,75

-3,25

-0,53%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

616,50

-11,25

-1,79%

Lúa mạch

US cent/bushel

342,50

-4,25

-1,23%

Gạo thô

USD/cwt

15,27

-0,02

-0,13%

Đậu tương

US cent/bushel

1.358,50

+5,25

+0,39%

Khô đậu tương

USD/tấn

404,00

+7,30

+1,84%

Dầu đậu tương

US cent/lb

50,28

-0,64

-1,26%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

654,30

+6,90

+1,07%

Cacao Mỹ

USD/tấn

3.091,00

+44,00

+1,44%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

181,70

+2,15

+1,20%

Đường thô

US cent/lb

24,50

-0,08

-0,33%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

257,80

-9,20

-3,45%

Bông

US cent/lb

81,21

-0,57

-0,70%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

--

--

--

Cao su TOCOM

JPY/kg

133,10

+1,80

+1,37%

Ethanol CME

USD/gallon

2,16

0,00

0,00%

 

 

Nguồn: Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)