Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng lên gần mức cao nhất trong nhiều năm do tắc nghẽn chuỗi cung ứng năng lượng vẫn tồn tại trong khi nhiệt độ ở Trung Quốc giảm làm dấy lên lo ngại về việc nhu cầu năng lượng sưởi ấm ở nước này sẽ tăng lên.

Kết thúc phiên giao dịch, giá dầu thô Brent kết thúc phiên tăng 75 cent lên 85,08 USD/thùng, dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 52 cent lên 82,96 USD/thùng. Giá dầu đã tăng liên tục trong hai tháng qua. Kể từ đầu tháng 9 đến nay, dầu Brent đã tăng khoảng 19%, trong khi WTI tăng khoảng 21%.
Louise Dickson, chuyên gia phân tích thị trường dầu tại công ty nghiên cứu năng lượng độc lập Rystad Energy của Na Uy, nhận định thị trường dầu mỏ đang rơi vào tình trạng thiếu hụt nguồn cung khiến lượng hàng tồn kho giảm sâu và dầu lên giá. Theo ông, tình trạng thắt chặt trên thị trường này sẽ kéo dài đến gần hết năm 2022 và nhu cầu dầu thô sẽ chỉ bắt kịp với nguồn cung dầu thô vào quý 4 năm sau.
Các thương nhân và nhà phân tích cũng cho rằng với việc nhiệt độ giảm xuống khi mùa đông ở Bắc bán cầu đang đến gần và nhu cầu sưởi ấm ngày càng tăng, giá dầu, than và khí đốt tự nhiên có thể sẽ tiếp tục tăng cao.
Trang dự báo thời tiết AccuWeather.com cho biết thời tiết lạnh giá đã bắt đầu tràn vào Trung Quốc, với dự báo nhiệt độ sẽ giảm xuống 0 độ tại các khu vực miền Bắc.
Giá than và khí đốt tự nhiên tăng ở châu Á dự kiến sẽ khiến một số lĩnh vực tiêu dùng chuyển sang dùng dầu - giá rẻ hơn để thay thế. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng điện đang đẩy giá điện tăng cũng ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế Trung Quốc, vốn đã giảm xuống mức thấp nhất trong một năm, dữ liệu chính thức cho biết.
Tỷ lệ xử lý dầu thô hàng ngày của Trung Quốc cũng giảm trong tháng trước, xuống mức thấp nhất kể từ tháng 5 năm ngoái.
Tại Brazil, công ty dầu khí nhà nước Petrobras cho biết sẽ không thể đáp ứng nhu cầu của các nhà phân phối nhiên liệu trong tháng 11/2021, do đã vượt quá khả năng sản xuất. Thông báo này đã làm dấy lên lo ngại về tình trạng thiếu hụt nguồn cung tại Brazil.
Tại Mỹ, dự trữ dầu thô tăng trong khi tồn kho xăng và sản phẩm chưng cất giảm trong tuần trước, theo các nguồn thị trường trích dẫn số liệu của Viện Dầu khí Mỹ. Dự trữ dầu thô trong tuần kết thúc vào ngày 15 tháng 10 tăng 3,3 triệu thùng; tồn trữ xăng giảm 3,5 triệu thùng; trong khhi tồn trữ sản phẩm chưng cất giảm 3 triệu thùng.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng nhẹ do nhu cầu “trú ẩn an toàn” của nhà đầu tư, mặc dù đà tăng bị hạn chế bởi lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ tăng và doanh thu của các công ty Mỹ lạc quan.
Cuối phiên này, giá vàng giao ngay tăng 0,3% lên 1.769,94 USD/ounce, sau phiên có lúc tăng tới 1,2% nhờ sự suy yếu của đồng USD khiến kim loại quý này trở nên hấp dẫn hơn đối với những người nắm giữ các đồng tiền khác; vàng kỳ hạn giao sau cũng tăng 0,3% lên 1.770,5 USD/ounce.
Nhà phân tích Edward Moya thuộc công ty dịch vụ môi giới OANDA, có trụ sở tại Mỹ, cho rằng hiện tại, nhà đầu tư không có nhiều niềm tin vào vàng. Cũng theo ông Moya, thị trường vẫn chưa biết chính xác liệu khi nào Fed sẽ điều chỉnh chính sách tiền tệ. Trong khi đó, báo cáo kết quả kinh doanh lạc quan của doanh nghiệp đang làm gia tăng sức hấp dẫn của các tài sản rủi ro như chứng khoán.
Một nhân tố khác làm giảm bớt sự hấp dẫn của vàng là việc lợi suất trái phiếu Chính phủ Mỹ kỳ hạn 10 năm tăng mạnh lên 1,6302%, mức cao nhất kể từ đầu tháng Sáu. Một số nhà quan sát dự báo Fed sẽ sớm thu hẹp chương trình mua tài sản trước báo cáo lợi nhuận tích cực của doanh nghiệp và đà tăng của giá tiêu dùng tại Mỹ.
Về những kim loại quý khác, giá bạch kim tăng 0,6% lên 1.041,50 USD/ounce, palladium tăng 4,2% lên 2.100,15 USD/ounce, bạc giao ngay tăng 2,7% lên 23,80 USD/ounce, chạm mức cao nhất trong hơn một tháng.
Nhà phân tích Giovanni Staunovo của UBS cho biết, cùng với bạch kim và palladium có khả năng được hỗ trợ bằng việc bán khống, "có một số kỳ vọng rằng sự thiếu hụt chip có khả năng đã lên đến đỉnh điểm". "Nếu dữ liệu cho thấy đúng như vậy, dự kiến khó khăn của ngành sản xuất xe hơi sắp giảm bớt, sản lượng có cơ hội tăng lên."
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm do các nhà đầu tư bán chốt lời sau đợt tăng giá mạnh gần đây trong bối cảnh thị trường năng lượng rơi vào khủng hoảng. Giá kẽm phiên này cũng giảm do lượng dự trữ tăng.
Đồng kỳ hạn giao sau 3 tháng trên sàn London giảm 0,6% xuống 10.134 USD/tấn vào cuối phiên, sau khi tăng 2% lên 10.402,50 USD trước đó trong cùng phiên.
Giá đồng trên sàn LME đã tăng 15% trong vòng chưa đầy hai tuần, tiến gần hơn đến mức cao kỷ lục 10.747,50 USD chạm tới vào tuần trước.
Gianclaudio Torlizzi, đồng sáng lập của công ty tư vấn T-Commodity ở Milan, cho biết: “Có một số hoạt động chốt lời, dẫn đến thực tế là giá các mặt hàng năng lượng giảm một chút. Giá khí tự nhiên của Mỹ giảm xuống gần mức thấp nhất trong 4 tuần.
Lượng đồng lưu kho trên sàn LME giảm xuống 14.150 tấn, mức thấp nhất kể từ năm 1998.
Giá kẽm kết thúc phiên này cũng giảm 4,3% xuống 3.538,50 USD/tấn sau khi chứng kiến xu hướng đầu cơ ròng mạnh nhất kể từ 2014, theo ước tính của nhà môi giới Marex.
Dữ liệu của LME cho thấy lượng kẽm lưu kho trên sàn LME tăng 8% lên 201.700 tấn, sau khi giảm 37% kể từ giữa tháng 4.
gia hang hoa the gioi
Trong nhóm sắt thép, giá quặng sắt kỳ hạn trên Sàn giao dịch Hàng hóa Đại Liên của Trung Quốc đã phục hồi sau 4 phiên giảm liên tiếp trước đó. Kết thúc phiên 19/10, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 1 tăng 0,1% lên 707 CNY (110,37 USD)/tấn. Trong phiên có lúc giá tăng 1,6%, do lượng cung ứng từ các nhà cung cấp lớn sụ giảm.
Nhập khẩu quặng sắt từ Australia và Brazil vào Trung Quốc trong tuần kết thúc vào ngày 17/10 giảm 589.000 tấn so với tuần trước đó, dữ liệu của Mysteel cho thấy.
Giá quặng sắt có hàm lượng sắt 62% giao ngay tại cảng biển Trung Quốc không đổi ở mức 123 USD/tấn.
Giá thép phiên này cũng tăng, với thép thanh vằn trên sàn Thượng Hải tăng 2,3% lên 5.546 CNY/tấn; thép cuộn cán nóng tăng 1,2% lên 5.736 CNY/tấn; thép không gỉ giao sau tại Thượng Hải giảm 2,1% xuống 20.400 CNY/tấn.
Trên thị trường nông sản, giá đậu tương phiên vừa qua tăng, kéo dài chuỗi tăng lên 4 phiên liên tiếp, với hợp đồng kỳ hạn tháng 11 đạt mức cao nhất 1 tuần do nhu cầu dầu thực vật tăng trên toàn cầu.
Tuy nhiên, giá ngô và lúa mì lại giảm khi kết thúc một phiên giao dịch đầy biến động.
Cụ thể, giá đậu tương kỳ hạn tháng 11 tăng 6-1/2 cent lên 12,28 USD/bushel; giá lúa mì kỳ hạn tháng 12 giảm 1/4 US cent xuống 7,36 USD/bushel, trong khi ngô giao tháng 12 giảm 2-1/2 cent và kết thúc ở mức 5,30-1/4 USD/bushel.
Giá đường thô giảm 0,48% trong phiên vừa qua, tương đương 2,5%, xuống 18,87 US cent/lb, mức thấp nhất kể từ cuối tháng 9.
Các quỹ tiếp tục thanh lý các hợp đồng đã mua, trong khi nhu cầu mua lúc này không cao.
Thời tiết ở khu vực trung nam Brazil gần đây đã có mưa, mặc dù độ ẩm vẫn còn thấp. Mưa xuống giúp hồi sinh sự tăng trưởng của cây mía.
Giá đường trắng kỳ hạn tháng 12 phiên này giảm 1,1% xuống 501,80 USD/tấn.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 12 tăng 2,65 US cent (1,3%) trong phiên vừa qua, lên 2,0425 USD/lb, kết thúc 2 phiên giảm liên tiếp trước đó.
Tình trạng thiếu công suất vận chuyển container tiếp tục làm gián đoạn dòng chảy cà phê từ Brazil và Việt Nam, dẫn đến việc các nước tiêu thụ phải sử dụng đến kho dự trữ cà phê của mình. Tuy nhiên, những trận mưa ở Brazil gần đây giúp cải thiện triển vọng vụ mùa 2022/23 ở nước sản xuất cà phê hàng đầu thế giới.
Giá robusta giao tháng 1 phiên này cũng tăng 5 USD, tương đương 0,2% lên 2.120 USD/tấn.
Giá cao su tại Nhật Bản tăng hơn 4%, cùng xu hướng với giá tại Thượng Hải trong bối cảnh giá cao su ở khắp các thị trường châu Á có xu hướng đi lên.
Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 3 trên sàn Osaka tăng 9,1 yên tương đương 4,1%, lên 233,1 yên/kg. Trên sàn Thượng Hải, cao su kỳ hạn tháng 1 tăng 5,1% lên 15.350 CNY/tấn.
Giá hàng hóa thế giới

 

Hàng hóa

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

82,66

-0,30

-0,36%

Dầu Brent

USD/thùng

84,63

-0,45

-0,53%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

52.500,00

+470,00

+0,90%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

5,02

-0,07

-1,38%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

246,84

-0,71

-0,29%

Dầu đốt

US cent/gallon

255,35

-0,72

-0,28%

Dầu khí

USD/tấn

736,00

+1,00

+0,14%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

74.780,00

-150,00

-0,20%

Vàng New York

USD/ounce

1.771,60

+1,10

+0,06%

Vàng TOCOM

JPY/g

6.513,00

+3,00

+0,05%

Bạc New York

USD/ounce

23,73

-0,16

-0,66%

Bạc TOCOM

JPY/g

87,00

+0,70

+0,81%

Bạch kim

USD/ounce

1.038,90

-4,57

-0,44%

Palađi

USD/ounce

2.090,94

-10,61

-0,50%

Đồng New York

US cent/lb

463,15

-7,15

-1,52%

Đồng LME

USD/tấn

10.149,50

-46,50

-0,46%

Nhôm LME

USD/tấn

3.112,00

-55,50

-1,75%

Kẽm LME

USD/tấn

3.508,00

-188,50

-5,10%

Thiếc LME

USD/tấn

37.710,00

-104,00

-0,28%

Ngô

US cent/bushel

529,50

-0,75

-0,14%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

738,25

+2,25

+0,31%

Lúa mạch

US cent/bushel

651,50

-4,50

-0,69%

Gạo thô

USD/cwt

13,72

0,00

-0,04%

Đậu tương

US cent/bushel

1.227,50

-0,50

-0,04%

Khô đậu tương

USD/tấn

322,40

-0,20

-0,06%

Dầu đậu tương

US cent/lb

62,47

+0,08

+0,13%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

929,50

-2,70

-0,29%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.559,00

-51,00

-1,95%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

204,25

+2,65

+1,31%

Đường thô

US cent/lb

18,87

-0,48

-2,48%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

124,45

+4,25

+3,54%

Bông

US cent/lb

107,03

-0,80

-0,74%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

707,00

-42,00

-5,61%

Cao su TOCOM

JPY/kg

178,40

-1,40

-0,78%

Ethanol CME

USD/gallon

2,21

0,00

0,00%

 

 

Nguồn: Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)