Theo dữ liệu từ Kpler, xuất khẩu LNG của Mỹ trong năm 2024 có thể sẽ đạt 86,9 triệu tấn, tăng khoảng 720.000 tấn hoặc tăng 0,8% so với năm 2023, và do đó duy trì xu hướng tăng xuất khẩu LNG của Mỹ bất chấp tình trạng ngừng hoạt động trong thời gian ngắn tại một số kho cảng xuất khẩu trong năm 2024 và sự chậm trễ tại các dự án mới đang được xây dựng.
Bất chấp sự tăng trưởng về sản lượng, đây không phải là một năm dễ dàng đối với lĩnh vực xuất khẩu LNG của Mỹ, vốn đã trở thành ngành xuất khẩu lớn nhất thế giới vào năm 2023. Theo Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA), sản lượng khí đốt trong nước đạt kỷ lục kết hợp với nhu cầu khí đốt chậm lại ở các thị trường trọng điểm đã khiến giá xuất khẩu LNG trung bình của Mỹ từ đầu năm đến nay giảm khoảng 21% so với năm 2023.
Theo EIA, trong 9 tháng đầu năm 2024, giá xuất khẩu LNG trung bình là 6,15 USD/ngàn feet khối, giảm so với mức trung bình 7,75 USD trong cùng kỳ năm 2023 và mức trung bình 12,20 USD trong 9 tháng năm 2022, thời điểm xung đột Nga - Ukrainegây ra tình trạng hỗn loạn trong ngành điện và lượng nhập khẩu LNG trên khắp châu Âu tăng mạnh.
Giá xuất khẩu LNG của Mỹ trong năm nay giảm nhiều hơn mức giảm khoảng 15% so với cùng kỳ của hợp đồng khí đốt tự nhiên tương lai Henry Hub - giá khí chuẩn của Mỹ - và do đó làm giảm doanh thu của các nhà xuất khẩu LNG trong suốt năm 2024.
Lượng nhập khẩu của thị trường hàng đầu Châu Âu giảm 22% so với năm 2023 cũng gây thiệt hại cho các nhà xuất khẩu LNG của Mỹ khi buộc họ phải tìm những thị trường xuất khẩu khác, thường ở những địa điểm xa hơn, tốn nhiều chi phí hơn. Theo Kpler, trong cả năm 2024, châu Âu đang trên đà mua 43,8 triệu tấn LNG từ Mỹ, thấp hơn 12,7 triệu tấn so với năm 2023 và là năm thấp nhất kể từ năm 2021. Đơn đặt hàng từ châu Âu giảm, các nhà xuất khẩu Mỹ phải tăng doanh số bán hàng sang châu Á, nơi khối lượng tăng 8 triệu tấn lên 31,6 triệu tấn trong năm 2024. Nhưng việc chuyển khối lượng đó sang các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ và Trung Quốc tốn nhiều chi phí hơn so với tải trọng hàng hóa tương đương đến châu Âu do khoảng cách xa hơn. Thời gian chuyến đi từ cảng xuất khẩu LNG Sabine Pass ở Vịnh Hoa Kỳ đến cảng nhập khẩu LNG Sodegaura ở Nhật Bản là khoảng 30 ngày - dài gấp đôi chuyến đi đến cảng Rotterdam ở Hà Lan, trung tâm khí đốt chính của châu Âu. Do đó chi phí vận chuyển tăng cũng như lượng khí bốc hơi từ bể chứa nhiều hơn, dẫn đến khối lượng khi giao hàng thấp hơn.
XU HƯỚNG GIÁ
Giá khí đốt tự nhiên toàn cầu tăng sẽ làm tăng thu nhập của những nước xuất khẩu khí đốt vào năm 2025. Theo LSEG, giá khí đốt kỳ hạn tại trung tâm giao dịch khí đốt TTF ở Hà Lan hiện được dự đoán sẽ tăng gần 12% vào năm 2025 so với mức trung bình năm 2024, trong khi hợp đồng tương lai của Henry Hub được dự đoán sẽ tăng 32% so với mức trung bình năm 2024. Tuy nhiên, giá khí đốt cao hơn cũng có thể làm giảm nhu cầu sử dụng LNG ở các nền kinh tế nhạy cảm về giá, nơi than và các nguồn năng lượng khác rẻ hơn và dồi dào hơn. Theo Kpler, tổng lượng nhập khẩu LNG của Ấn Độ, Pakistan và Bangladesh đang trên đà đạt kỷ lục gần 40 triệu tấn trong năm 2024. Nhưng các nhà sản xuất điện ở những quốc gia này được xếp vào hàng những quốc gia nhạy cảm nhất về chi phí ở châu Á và rất thành thạo trong việc chuyển đổi khí đốt sang nhiên liệu khác khi giá cả biến động hoặc các nguồn năng lượng khác rẻ hơn .
Trong năm 2022, khi giá khí đốt và LNG toàn cầu tăng vọt sau cuộc xung đột giữ Ukraine và Nga, tổng lượng nhập khẩu của Nam Á đã giảm 16%, tương đương 6 triệu tấn so với năm 2021 do giá khí đốt tăng cao. Năm 2025, những nước nhập khẩu khí đốt ở khu vực đó một lần nữa có thể rút lui khỏi thị trường thế giới nếu giá leo thang quá mức và chuyển sang sử dụng than hoặc nhiên liệu khác để thay thế. Ngay cả ở châu Âu giàu có hơn, các nước nhập khẩu khí đốt cũng có thể giảm nhập khẩu khí đốt nếu hoạt động công nghiệp địa phương vẫn im ắng hoặc nếu năng lượng tái tạo và các nguồn năng lượng sạch khác tăng nguồn cung đủ để thay thế sản lượng nhiên liệu hóa thạch. Mức độ không chắc chắn về nhu cầu LNG này có nghĩa là khối lượng xuất khẩu LNG tổng thể năm 2025 sẽ tăng trưởng không chắc chắn.

Nguồn: Vinanet/VITIC/Reuters