Đầu năm 2008, kinh tế thế giới chuyển biến phức tạp, giá cả nhiều mặt hàng liên tục tăng cao như dầu mỏ, vàng, sắt thép, phân bón. Trong đó, phân bón là mặt  hàng ảnh hưởng trực tiếp nhất đến hoạt động sản xuất của người nông dân. Bắt đầu từ năm 2007, giá một số loại phân bón đồng loạt tăng với mức cao nhất trong vòng gần 35 năm qua (1973-2008) như Urea hạt trong, Urêa hạt đục, phân DAP, kali, SA và sulphur....

Trong đó, nhu cầu phân Urêa trên thế giới giai đoạn 2007-2008 đã tăng lên 17-20%. Các nguồn nguyên liệu sản xuất ở những nước có nền công nghiệp này ngày càng bị can kiệt.

Tại Trung Quốc, tháng 4/2008 nước này đã quyết định tăng thuế xuất khẩu phân bón từ 35% lên 135% - mức thuế cao nhất hiện nay.

Chính những yếu tố này đã góp phần làm cho giá Urêa trên thị trường thế giới tăng bình quân từ 255 USD/tấn lên 770 USD/tấn (tương đương 201,96%), tính đến 23/7/2008. Các loại phân bón khác như DAP, Kali giá đều tăng từ 326,1 đến 397,5% so với những năm trước đây.

Chính những diễn biến phức tạp này đã đẩy thị trường phân bón trong nước biến động không ngừng trong xu hướng tăng. So với cùng kỳ 2007, hiện giá bán lẻ super lân đã tăng tới 99,6%, NPK tăng 184%, phân Urêa tăng 76% và phân hữu cơ tăng 30,8%... Nhưng mức tăng này vẫn thấp hơn nhiều so với mức tăng trên thị trường thế giới.

Để tháo gỡ khó khăn cho người nông dân, Hiệp hội phân bón Việt Nam đã đề xuất 8 nhóm giải pháp bình ổn thị trường phân bón trong nước như sau:

1.Lên kế hoạch nhập khẩu phân Urêa hạt trong đến năm 2010 vì mặt hàng này hiện đang phải nhập đến 50% (tương đương 820-830.000 tấn) chủ yếu nhập qua đường tiểu ngạch (nếu con đường này bị trục trặc thì bị bế tắc). Mặt hàng nhạy cảm này cần được quan tâm sớm để tránh rủi ro, trước mắt là vụ Đông Xuân năm 2008-2009.

2.Chỉ đạo các bộ, các tỉnh thành, phát động thực hiện chỉ thị số 644/TTg của Thủ tướng Chính phủ về quản lý sản xuất phân bón hữu cơ và phân đặc chủng cho từng loại cây, phân chuyên dùng cho mùa rét, phân chuyên cho đất khô hạn và thích hợp cho từng vùng đất.

3.Ban hành qui chế tiêu chuẩn đơn vị sản xuất phân bón NPK, phân hữu cơ, phân vi sinh về công nghệ, cán bộ, nhà xưởng cũng là một chế tài để kiểm soát các loại phân bón, phân giả, phân kém chất lượng và chất lượng cao.

4.Đề nghị bỏ qui định nhãn mác bao bì các loại phân bón nhập khẩu in tiếng Việt trên bao bì theo nghị định số 98/2006-NĐ ngày 30/8/2006 về nhãn mác (vì phân bón con người k hông trực tiếp ăn uống như thuốc tây, hay thực phẩm), chỉ cần ghi trên bao bì theo thông lệ quốc tế bằng tiếng Anh là đủ. Nếu để quy định bao bì phân bón nhập khẩu phải có tiếng Việt sẽ gây khó khăn trong việc phân phối các nguồn hàng.

5.Ưu tiên đầu tư liên doanh, hoặc tư nhân hoá phát triển phân lân nung chảy. Mỗi năm nhu cầu về phân lân nung chảy ở nước ta lên đến 1.200.000-1.500.000 tấn nhưng sản xuất trong nước chỉ đáp ứng được 550.000 tấn. Việc sản xuất phân lân nung chảy hầu hết là nguyên liệu nội địa như than đá, quặng apatis, serpentin.

Song song với việc tăng cường sản xuất phân lân nung chảy, cần đẩy mạnh sản xuất NPK chất lượng cao. Loại phân bón này nếu tăng cường cải tiến, đổi mới công nghệ thì có thể thay thế được một phần DAP nhập khẩu.

Nếu sản xuất nội địa đảm bảo được hai mặt hàng này sẽ hạn chế đáng kể tình trạng nhập siêu, thậm chí, Việt Nam còn có thể trở thành quốc gia xuất khẩu mặt hàng phân lân nung chảy ra các thị trường khác trên thế giới.

6.Chính phủ chỉ đạo Bộ Tài chính và các cơ quan chính sách tổ chức đoàn nghiên cứu tình hình sản xuất phân urê ở Tổng Công ty Phân đạm và Hoá chất dầu khí. Urê Phú Mỹ được hưởng ưu đãi gá khí 2,2 USD/1 triệu BTU trong khi giá khí quốc tề từ 4-5,5 USD/1 triệu BTU. Giá thành đầu vào để sản xuất phân urê tại nhà máy Phú Mỹ năm 2006, 2007, 2008 bình quân từ 3700-3800 đ/kg.

7.Đề nghị đạm Phú Mỹ kiểm tra lại các khâu phân phối.

8.Dùng số tiền siêu lãi bán Urê của đạm Phú Mỹ cộng với số tiền được ưu tiên miễn thuế thu nhập doanh nghiệp 28% gộp lại lập quỹ hỗ trợ giúp đỡ nông dân, cho từng thời kỳ giá phân bón, vật tư nông nghiệp tăng cao.

(VTIC)

Nguồn: Vinanet