Hồ tiêu Việt Nam giữ vững vị thế ở thị trường CPTPP
Thống kê của Hiệp hội Hồ tiêu và Cây gia vị Việt Nam, 6 tháng đầu năm 2024, cả nước đã xuất khẩu khoảng 62.000 tấn quế, đạt kim ngạch hơn 177 triệu USD. Sản lượng tăng nhẹ so với cùng kỳ năm trước, nhưng giá trị lại giảm do quan hệ cung cầu trên thị trường.
Xuất khẩu ngành quế hiện tập trung chủ yếu ở châu Á, đặc biệt là Ấn Độ, với khoảng 60% tổng sản lượng quế xuất khẩu; thứ hai là châu Mỹ với thị trường chính là Hoa Kỳ chiếm khoảng 20% tổng sản lượng xuất khẩu; thứ ba là châu Âu với khoảng 10% và châu Phi gần 40%.
Ngoài ra, xuất khẩu một số cây gia vị khác như hồi, ớt, tiêu… cũng ghi nhận sự tăng trưởng rất tích cực khi sản lượng tăng, giá cũng tăng đáng kể.
Về việc thực thi, tận dụng những ưu đãi từ các FTA, nhất là các FTA thế hệ mới như CPTPP mang lại, bà Hoàng Thị Liên – Chủ tịch Hiệp hội Hồ tiêu và cây gia vị Việt Nam (VPSA) cho biết, năm 2024 ghi nhận sự đột phá trong khẩu thị trường nhờ vào lợi thế từ các hiệp định FTA và nỗ lực của doanh nghiệp và người tiêu dùng thế giới ngày càng biết nhiều hơn đến hàng Việt Nam. 8 tháng năm 2024, xuất khẩu quế, hồi, cây gia vị… sang các thị trường đều ghi nhận con số tăng trưởng cao. Đây là những động lực rất lớn, những con số trên đã là minh chứng rõ nhất về tình hình tận dụng ưu đãi từ các FTA để đẩy mạnh xuất khẩu của doanh nghiệp.
Cụ thể hơn, hiện nay, các doanh nghiệp ngành hàng hồ tiêu đã xuất khẩu đi nhiều thị trường trong đó có khối thị trường CPTPP. Trong khối thị trường này, có các thị trường như Australia, Nhận Bản, New Zealand… là những nước có nhu cầu tiêu dùng cao, trong khi Việt Nam lại có lợi thế về sản xuất.
Tính về thành viên của khối CPTPP thì các thị trường Australia, New Zealand, Nhật Bản, Canada đều có yêu cầu rất khắt khe, tuy nhiên, về số lượng tiêu thụ thì lượng nhập từ Australia, New Zealand còn ít.
Canada nhập khẩu hồ tiêu trực tiếp từ Việt Nam với lượng khiêm tốn mà chủ yếu nhập khẩu qua khu vực Bắc Mỹ.
Với khối thị trường CPTPP, hiện nay chúng ta đang xuất khẩu trực tiếp sang thị trường Nhật Bản và nhiều doanh nghiệp Nhật Bản đã đến đầu tư vào ngành gia vị tại Việt Nam. Còn tại thị trường Australia, New Zealand, hiện chúng ta đang có lợi thế tuyệt đối trong việc cung cấp sản phẩm hồ tiêu.
“Hiện nay, tỷ lệ thô và tinh trong xuất khẩu hồ tiêu nói chung và tại khối thị trường CPTPP hiện đang rơi vào tỷ lệ khoảng 80 – 20. Chúng tôi cũng đang khuyến khích hội viên trong doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp có khả năng tiếp tục đầu tư công nghệ để đẩy mạnh chế biến sâu. Tuy nhiên, chế biến sâu thì chúng ta cũng phải lo phía đầu thị trường. Bởi hàng chế biến sâu là hàng rất đặc thù và tùy thuộc vào nhu cầu của từng người mua, từng khách hàng chứ không phải của từng thị trường. Do đó, phải đảm bảo chắc chắn cho doanh nghiệp có được thị trường bảo đảm thì khi đó doanh nghiệp mới lồng ghép với vấn đề đầu tư” – bà Hoàng Thị Liên phân tích.
Tuy nhiên, hiện nay, về cơ bản, với các thị trường phát triển như EU, Australia, Nhật Bản, New Zealand, Hoa Kỳ,… đang sử dụng các tiêu chuẩn, yêu cầu thị trường gần ngang bằng nhau. Do đó, khi hồ tiêu đi được vào các thị trường này thì chúng ta cũng đã đi vào phân khúc của thị trường cao cấp.
Còn với phân khúc thị trường Trung Đông, châu Á, châu Phi thì có sự khác biệt.
Như vậy, ở đây, tiêu chí thị trường được phân bố theo khu vực hơn là từng nước. Nếu chúng ta so sánh với các nước có cùng tương thích về lợi ích, trình độ phát triển kinh tế và mức độ quản lý hàng rào nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu thì về cơ bản sẽ không có sự khác nhau nhiều.
Xây dựng thương hiệu hồ tiêu Việt ở thị trường CPTPP
Bà Hoàng Thị Liên cho rằng, xây dựng được thương hiệu cây gia vị ở thị trường CPTPP sẽ giúp sản phẩm được nhận diện rõ hơn và mang lại giá trị cao hơn. Song hiện nay, để xây dựng được thương hiệu phải bắt buộc nhà xuất khẩu, nhà chế biến gắn trực tiếp với vùng nguyên liệu để làm việc trực tiếp với nông dân, từ đó, mới quản lý được sản xuất và như vậy mới đảm bảo được yêu cầu về chất lượng. Chất lượng mới gắn liền với yếu tố bền vững, truy xuất nguồn gốc. Đây là điều kiện cần.
Bước tiếp theo đó là các doanh nghiệp cần mạnh dạn, xem xét đầu tư thương hiệu. Bởi với các khách hàng tiềm năng, các khách hàng đầu cuối thì yếu tố mà họ quan tâm và muốn làm đối tác lâu dài với các nhà cung cấp hồ tiêu và gia vị Việt Nam chính là những nhà cung cấp, chế biến, xuất khẩu có liên kết sản xuất, có sự hỗ trợ nông dân trong chuỗi.
Việc này giúp cho chuỗi cung cấp của họ bền vững. Bởi khi nắm được đầu sản xuất, trong quá trình cung cấp mà cần điều chỉnh theo yêu cầu của khách hàng mua hay theo yêu cầu của thị trường, nhà cung cấp có thể làm việc trực tiếp với người nông dân thì họ sẽ làm được nhanh hơn so với những nhà cung cấp chỉ làm ở phân khúc giữa – làm thương mại.
Song song với đó, bài toán bền vững, bài toán thương hiệu sẽ phải gắn liền với việc chủ động nguồn hàng. Và như vậy, không có cách gì khác là chúng ta phải bắt tay với nông dân và nông dân sẽ là đối tác bền vững trong chuỗi cung cấp khi liên kết với nhà sản xuất, xuất khẩu để đưa hàng ra thị trường nước ngoài.
TS Lê Duy Bình – Giám đốc Economica Việt Nam chia sẻ thêm, xây dựng thương hiệu đòi hỏi sự nỗ lực của không chỉ một doanh nghiệp duy nhất mà của cả chuỗi giá trị, cả hệ sinh thái mà doanh nghiệp đó làm công tác điều phối. Ví dụ để xuất khẩu 1 mặt hàng thì đằng sau đó là nhiều tác nhân khác trong một chuỗi giá trị, từ những người sản xuất chế biến ra sản phẩm ban đầu, quá trình sơ chế và chế biến sâu hơn. Như vậy điều này đòi hỏi sự nỗ lực rất khác nhau của nhiều tác nhân trong 1 chuỗi giá trị. Nếu ta thành công trong xây dựng thương hiệu, giá trị hàng hoá sẽ có thể tăng gấp đôi, gấp 3, mang lại lợi ích lớn cho doanh nghiệp

Nguồn: Hà Anh/Cổng thông tin điện tử Bộ Công Thương