(Vinanet) Tháng 6/2013 hàng hóa từ Trung Quốc nhập khẩu vào Việt Nam bị sụt giảm 17,36% về kim ngạch so với tháng trước đó, đạt 2,93 tỷ USD. Tính chung cả 2 quí đầu năm 2013, nhập khẩu từ Trung Quốc vẫn tăng 29,78% so với cùng kỳ, trị giá trên 16,87 tỷ USD, chiếm 27% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của cả nước.
Nói chung, hầu hết các loại hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc trong tháng 6 đều bị sụt giảm kim ngạch so với tháng 5. Trong đó, nhóm hàng đứng đầu về kim ngạch là máy móc, thiết bị bị sụt giảm 7,73%, nhưng tính chung cả 6 tháng vẫn tăng 13,96% so cùng kỳ, đạt 2,75 tỷ USD; nhóm hàng lớn thứ 2 là điện thoại và linh kiện, tháng này cũng giảm 20,2%, nhưng cả 6 tháng lại tăng 85%, đạt 2,61 tỷ USD; tiếp đến máy vi tính, điện tử giảm 19,94% trong tháng 6, nhưng tăng 48,59% trong cả 6 tháng, đạt 2,09 tỷ USD. Nhập khẩu vải tháng 6 giảm 25,79%, 6 tháng tăng 24,68%, đạt 1,78 tỷ USD; nhập khẩu sắt thép tháng 6 giảm 22,28%, 6 tháng tăng 50,14%, đạt 1,26 tỷ USD.
Điểm đáng chú ý trong tháng 6 là trong khi hầu hết các mặt hàng nhập khẩu từ Trung Quốc đều sụt giảm, chỉ có vài nhóm hàng tăng kim ngạch, thì riêng mặt hàng bông lại tăng đột biến so với tháng 5, tăng tới 1.035% về kim ngạch, đạt 4,29 triệu USD.
Tính chung trong cả 6 tháng đầu năm, các nhóm hàng tăng mạnh về kim ngạch gồm có: Đá quý, kim loại quý (+279,51%), Bông (+187,23%), Điện thoại (+85%), Kim loại thường (+82,28%).
Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa từ Trung Quốc 6 tháng đầu năm 2013
|
|
|
T6/2013 so với T5/2013(%)
|
6T/2013 so với cùng kỳ (%)
|
Tổng kim ngạch
|
|
|
|
|
Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác
|
|
|
|
|
Điện thoại các loại và linh kiện
|
|
|
|
|
Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Thuốc trừ sâu và nguyên liệu
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Hàng điện gia dụng và linh kiện
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Thức ăn gia súc và nguyên liệu
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Nguyên phụ liệu dược phẩm
|
|
|
|
|
Ô tô nguyên chiếc các loại
|
|
|
|
|
Sản phẩm từ kim loại thường khác
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Linh kiện, phụ tùng xe máy
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Đá quý, kim loại quý và sản phẩm
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Phương tiện vận tải khác và phụ tùng
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Bánh kẹo và các sản phẩm từ ngũ cốc
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Doanh nghiệp phải biết cách làm ăn với Trung Quốc:
Rủi ro khi làm ăn tại thị trường Trung Quốc không ít nhưng nếu có chiến lược riêng, lâu dài và bài bản thì doanh nghiệp VN hoàn toàn có cơ hội khai thác từ thị trường đông dân nhất thế giới này.
Những doanh nghiệp đã và đang làm ăn tại TQ đều có chung một tình cảnh: đưa hàng sang bán những tháng đầu rất tốt, hàng chạy ro ro nhưng cứ sau vài tháng hàng giả, hàng nhái tràn lan. Thậm chí những mặt hàng VN chưa chính thức có mặt trên thị trường này nhưng được đánh tiếng chất lượng tốt lập tức cũng bị nhái.
Thị trường TQ phần lớn là doanh nghiệp tư nhân, quy mô nhỏ, không chú trọng nhiều đến thương hiệu, tiếp thị mà khá nhạy cảm với thuế và giá cả. Nếu doanh nghiệp VN có chiến lược đầu tư bài bản, tìm thị trường ngách và nắm vững một số tâm lý tiêu dùng thì thị phần hàng Việt tại đây hoàn toàn có cơ hội tăng lên.
Với một thị trường rộng lớn như Trung Quốc, cần tập trung phát triển theo khu vực. Bước đi ngắn nhất đến thị trường này là thâm nhập các hội chợ, triển lãm quốc tế về ngành hàng mà mình sản xuất.
Hiện nay, hầu hết doanh nghiệp VN khá “nhát tay” nhưng đây chính là sân chơi dành cho các nhà sản xuất, nhập khẩu, kinh doanh đến đó gặp gỡ. Khi bén rễ thị trường, doanh nghiệp xây dựng mạng lưới phân phối, ưu tiên các kênh phân phối đặc thù như trung tâm làm đẹp, tiệm làm móng..., những nơi có sức ảnh hưởng đến tâm lý tiêu dùng.