(VINANET) – HongKong (Trung Quốc) có vị trí thuận lợi để tiếp cận các thị trường như Trung Quốc lục địa và các nước Đông Nam Á. Vì vậy, trong suốt thời gian qua HongKong được các doanh nghiệp quốc tế chọn là nơi đóng đô để thúc đẩy các cơ hội kinh doanh với khu vực châu Á và tiếp cận các cơ hội kinh doanh quốc tế. Dù vị trí địa lý không phù hợp cho sản xuất nhưng HongKong lại có nền kinh tế thương mại phát triển nhờ vào tập trung phát triển mô hình hoạt động mậu dịch.
Với hệ thống thương mại, bán buôn, bán lẻ phát triển, HongKong được đánh giá là trung tâm tài chính thương mại quan trọng của châu Á và thế giới. Do vậy, doanh nghiệp các ngành hàng cũng đang nỗ lực để đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường.
Theo số liệu thống kê sơ bộ từ TCHQ Việt Nam, hai tháng đầu năm 2015, Việt Nam đã xuất khẩu sang HongKong 865,6 triệu USD, tăng 37,47% so với cùng kỳ năm 2014. Việt Nam xuất sang HongKong gồm các mặt hàng thiết bị viễn thông, bán dẫn, các loại van điện tử, giày dép, hàng dệt may…
Trong hai tháng đầu năm, hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện xuất sang Hong Kong đạt kim ngạch lớn nhất 268,2 triệu USD, chiếm 30,9% tổng kim ngạch, tăng 231,26% so với 2 tháng 2014…
Nhìn chung, trong thời gian nay hàng hóa của Việt Nam xuất sang Hong Kong đều có tốc độ tăng trưởng dương, số thị trường này chiếm tới 81,4%.
Đối với ngành dệt may, theo đánh giá của ngành xuất khẩu sang HongKong trong quý I/2015 tăng trưởng khá tốt, đạt 43,4 triệu USD, tăng 23,3% so với cùng kỳ 2014. Đây cũng là thị trường tiềm năng của nhiều ngành xuất khẩu như thực phẩm, ngành thỷ sản, rau quả. Đơn cử như trong 2 tháng đầu năm 2015, rau quả xuất khẩu vào thị trường này đạt tốc độ tăng trưởng về kim ngạch đến 228% so với cùng kỳ.
Theo ông Benjamin Chau, Phó Tổng GĐ Cục Phát triển mậu dịch HongKong (HKTDC), Việt Nam hiện là đối tác thương mại lớn thứ 12 của Hong Kong. Năm 2014, tổng kim ngạch thương mại hai chiều giữa Việt Nam và Hong Kong đạt 8,6 tỉ USD, tăng gần 12% so với năm 2013.
Thống kê hàng hóa xuất khẩu sang HongKong 2 tháng 2015 – ĐVT: USD
Chủng loại
|
2T/2015
|
2T/2014
|
% so sánh với cùng kỳ
|
Tổng kim ngạch
|
865.650.095
|
629.707.597
|
37,47
|
máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện
|
268.252.927
|
80.980.203
|
231,26
|
máy ảnh, máy quay phim và linh kiện
|
247.736.446
|
185.251.503
|
33,73
|
điện thoại các loại và linh kiện
|
82.023.905
|
139.357.721
|
-41,14
|
máy móc, thiết bị dụng cụ phụ tùng khác
|
70.306.613
|
56.752.422
|
23,88
|
hàng dệt, may
|
29.374.918
|
24.667.771
|
19,08
|
nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày
|
25.301.729
|
12.903.525
|
96,08
|
giày dép các loại
|
22.032.398
|
16.700.145
|
31,93
|
Hàng thủy sản
|
20.723.366
|
19.664.129
|
5,39
|
xơ, sợi dệt các loại
|
10.205.577
|
7.812.868
|
30,63
|
dây điện và dây cáp điện
|
10.055.720
|
5.863.257
|
71,50
|
túi xách, ví, vali, mũ, ô dù
|
9.864.309
|
6.606.430
|
49,31
|
gỗ và sản phẩm gỗ
|
9.699.896
|
16.497.834
|
-41,21
|
gạo
|
8.325.066
|
14.156.558
|
-41,19
|
kim loại thường khác và sản phẩm
|
4.976.535
|
1.244.705
|
299,82
|
hạt điều
|
4.267.134
|
2.774.471
|
53,80
|
sản phẩm từ cao su
|
3.145.996
|
2.067.058
|
52,20
|
hàng rau quả
|
2.991.203
|
910.389
|
228,56
|
Sản phẩm từ chất dẻo
|
2.150.072
|
1.797.673
|
19,60
|
đá quý, kim loại quý và sản phẩm
|
1.868.200
|
1.171.304
|
59,50
|
sản phẩm hóa chất
|
1.604.332
|
1.204.541
|
33,19
|
đồ chơi, dụng cụ thể thao và bộ phận
|
1.467.257
|
|
|
giấy và các sản phẩm từ giấy
|
1.187.880
|
533.360
|
122,72
|
sản phẩm từ sắt thép
|
927.351
|
563.061
|
64,70
|
bánh kẹo và các sản phẩm từ ngũ cốc
|
448.261
|
289.529
|
54,82
|
sản phẩm gốm, sứ
|
326.616
|
243.162
|
34,32
|
cao su
|
232.964
|
443.078
|
-47,42
|
chất dẻo nguyên liệu
|
162.714
|
128.806
|
26,32
|
sản phẩm nội thất từ chất liệu khác gỗ
|
95.445
|
|
|
sắt thép các loại
|
42.736
|
275.038
|
-84,46
|
(Nguồn số liệu: Thống kê sơ bộ từ TCHQ)