Năng lượng: Giá dầu tăng hơn 2%
Giá dầu tăng trong phiên cuối tuần (16/6) và tính chung cả tuần cũng tưang do nhu cầu của Trung Quốc tăng trong khi Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các nước đồng minh, hay còn gọi là OPEC+, cắt giảm nguồn cung, mặc dù kinh tế tế toàn cầu suy yếu và triển vọng diễn ra các đợt tăng lãi suất tiếp theo.
Kết thúc phiên, giá dầu Brent Biển Bắc tăng 0,94 USD lên 76,61 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 1,16 USD lên 71,78 USD/thùng.
Tính chung cả tuần dầu thô Brent tăng 2,4% và WTI tăng 2,3%.
Giá dầu tăng trong tuần vừa qua do nhu cầu của Trung Quốc tăng. Sản lượng lọc dầu của Trung Quốc trong tháng 5 tăng lên mức gần cao kỷ lục. Giám đốc điều hành của tập đoàn Dầu mỏ Kuwait dự kiến nhu cầu của Trung Quốc tiếp tục tăng trong nửa cuối năm.
Cũng hỗ trợ giá dầu là việc tổ chức OPEC+ hồi tháng 5 đã cắt giảm sản lượng, và Saudi Arabica tự nguyện cắt giảm thêm nữa trong tháng 7.
Bộ trưởng Năng lượng Nga Nikolai Shulginov cho biết giá dầu ở mức khoảng 80 USD/thùng là "thực tế". Ông Shulginov dự kiến sản lượng dầu khí ngưng tụ của Nga sẽ giảm khoảng 20 triệu tấn (400.000 thùng mỗi ngày) trong năm nay.
Tại Iran, xuất khẩu dầu thô và sản lượng dầu đã đạt mức cao mới vào năm 2023 bất chấp các lệnh trừng phạt của Mỹ, bổ sung vào nguồn cung toàn cầu khi các nhà sản xuất khác đang hạn chế sản lượng.
Công ty dịch vụ năng lượng Baker Hughes Co cho biết số giàn khoan dầu của Mỹ đã giảm 4 giàn trong tuần này xuống còn 552 giàn, mức thấp nhất kể từ tháng 4/2022, trong khi số giàn khoan khí đốt giảm 5 giàn xuống 130 giàn, mức thấp nhất kể từ tháng 3/2022.
Giới hạn mức tăng giá dầu là triển vọng tăng lãi suất, có thể làm chậm tăng trưởng kinh tế.
Ngân hàng Anh dự kiến sẽ tăng lãi suất thêm 1/4 điểm phần trăm vào tuần tới. Ngân hàng Trung ương châu Âu đã nâng lãi suất lên mức cao nhất trong 22 năm vào thứ Năm và Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đã báo hiệu mức tăng ít nhất một nửa điểm phần trăm vào cuối năm nay.
Kim loại quý: Giá vàng giảm nhẹ trong tuần
Giá vàng biến động mạnh vào thứ Sáu khi các nhà đầu tư đưa ra quan điểm Cục Dự trữ Liên bang (Fed) sẽ tiếp tục thắt chặt lãi suất, làm giảm tác động tích cực từ việc USD giảm giá trong tuần này.
Kết thúc phiên này, giá vàng giao ngay tăng 0,1% lên 1.958,83 USD/ounce, song tính tính chung cả tuần giảm 0,1%. Giá vàng giao sau phiên này gần như không đổi tại 1.971,2 USD/ounce.
Giá bạc phiên này tăng 1% lên 24,10 USD/ounce, trong khi bạch kim giảm 0,3% xuống 982,62 USD, cả hai đều giảm trong tuần. Giá palladium tăng 1,6% lên 1.422,03 USD, ghi nhận mức tăng hàng tuần lớn nhất kể từ tháng 11.
Edward Moya, nhà phân tích thị trường cao cấp của OANDA, cho biết: “Thị trường vàng đang gặp khó khăn vì chứng khoán tiếp tục tăng và Fed ngày càng có những phát biểu tỏ ý sẽ tiếp tục thắt chặt tiền tệ”.
“Có vẻ như thị trường tin rằng Fed gần như đã hoàn tất việc thắt chặt chính sách tiền tệ vì mọi người đang quay sang chứng khoán, điều này làm giảm nhu cầu của vàng”, ông nói.
Các quan chức ngân hàng trung ương Mỹ đều có quan điểm cứng rắn trong các bình luận đầu tiên của họ kể từ cuộc họp vừa qua do Fed, cho biết lạm phát ở các bộ phận quan trọng của lĩnh vực dịch vụ vẫn tăng và chưa có dấu hiệu giảm bớt.
Theo công cụ FedWatch của CME, với sức hấp dẫn đối với vàng thỏi không có lợi suất, các nhà giao dịch hiện đã nhìn thấy 74% khả năng lãi suất sẽ tăng vào tháng 7.
Chỉ số đồng USD tăng trong phiên cuối tuần, nhưng tính chung cả tuần giảm mạnh nhất trong vòng 5 tháng, khiến vàng rẻ hơn đối với người mua ở nước ngoài.
Các nhà giao dịch cũng xem xét kết quả cuộc khảo sát của Đại học Michigan cho thấy kỳ vọng lạm phát ngắn hạn của người tiêu dùng Mỹ đã giảm xuống mức thấp nhất trong hơn hai năm vào tháng 6 và triển vọng trong 5 năm tới được cải thiện đôi chút.
Kim loại: Giá đồng và sắt tăng tuần thứ 3 liên tiếp
Giá đồng chạm mức cao nhất hơn 5 tuần trong phiên cuối tuần, nhưng đã lùi khỏi mức cao do số liệu cho thấy tồn kho tại sàn giao dịch kim loại London đang tăng, cho thấy nguồn cung đang cải thiện.
Giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn giao dịch LME kết thúc phiên tăng 0,2% lên 8.576 USD/tấn sau khi chạm 8.634 USD/tấn, cao nhất kể từ ngày 10/5.
Kim loại này đã giảm trở lại sau khi số liệu trên sàn LME cho thấy kho dự trữ được bổ sung 16.350 tấn đồng, đưa tổng dự trữ tăng 14%.
Giá đồng đã phục hồi gần 10% kể từ khi chạm mức thấp nhất trong gần 6 tháng trong ngày 24/5. Tính chung trong tuần, giá đồng tăng 2,4%, là tuần thứ 3 tăng liên tiếp.
Thị trường đồng toàn cầu dự kiến dư thừa 240.000 tấn trong năm nay sau khi thiếu hụt 180.000 tấn trong năm 2022.
Một yếu tố khác cũng hỗ trợ cho giá đồng là thông tin nhà máy luyện Ronnskar của Boliden tại Thụy Điển đã tuyên bố bất khả kháng sau một vụ hỏa hoạn.
Dự trữ đồng tại sàn Thượng Hải giảm 20,1% trong tuần này, giảm 70% từ mức đỉnh hồi tháng 2. Nhưng tiêu thụ thực tế tại Trung Quốc vẫn yếu.
Về những kim loại cơ bản khác, giá thiếc kỳ hạn 3 tháng trên sàn London phiên cuối tuần giảm 0,9% xuống 26.985 USD, sau khi chạm mức cao nhất gần 2 tháng, là 27.675 USD.
Giá nhôm tăng 0,8 lên 2.267,50 USD/tấn, chì tăng 0,2% lên 2.134,50 USD, trong khi niken giảm 0,4% xuống 22.900 USD và kẽm giảm 0,5% xuống 2.469 USD.
Về nhóm kim loại đen, giá quặng sắt tăng tuần thứ 3 liên tiếp do dự đoán Trung Quốc, nước tiêu thụ thép hàng đầu thế giới, sẽ có thêm các gói kích thích để hỗ trợ nền kinh tế sau đại dịch.
Phiên cuối tuần, giá quặng sắt không biến động nhiều do có những thông tin trái chiều. Quặng sắt kỳ hạn tháng 9 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên kết thúc phiên tăng 0,12% lên 815 CNY (114,48 USD)/tấn, tính chung cả tuần tăng 2,4%. Tại Singapore quặng sắt kỳ hạn tháng 7 tăng 0,2% lên 113,6 USD/tấn, cao nhất kể từ ngày 12/4 và tăng 4,3% trong tuần này.
Tại Thượng Hải thép cây tăng 1,5%, thép cuộn cán nóng tăng 1,19%, thép dây tăng 0,9% và thép không gỉ tăng 0,39%.
Lượng quặng sắt tăng ở cả nhà máy và các cảng gây áp lực cho giá hợp đồng tại Đại Liên và Singapore lúc đầu phiên giao dịch thứ Sáu, nhưng sau đó được hỗ trợ bởi nhu cầu khá ổn định.
Tồn kho quặng sắt tại 45 cảng được công ty Mysteel khảo sát tăng khoảng 2% so với tuần trước, đạt 128,5 triệu tấn trong tuần này, trong khi đó các nhà máy tăng 0,16% lên 84,84 triệu tấn sau khi giảm 6 tuần liên tiếp.
Các nhà máy thép vẫn cần bổ sung quặng sắt để duy trì sản xuất trong thời gian tới do tỷ suất lợi nhuận được cải thiện và tồn kho quặng sắt thấp tại các nhà máy, các nhà phân tích của Huatai Futures cho biết trong một lưu ý.
Khả năng sinh lời của 247 nhà máy thép được khảo sát đã tăng lên 51,95% từ 43,75% vào tuần trước, trong khi sản lượng kim loại nóng trung bình hàng ngày tăng 0,7% lên 2,43 triệu tấn, dữ liệu của Mysteel cho thấy.
Nông sản: Giá ngũ cốc, cà phê, đường tăng trong tuần, riêng cao su giảm
Phiên cuối tuần, giá ngũ cốc và đậu tương Mỹ đồng loạt tăng. Trong đó, ngô và đậu tương đạt mức cao nhất trong vòng nhiều tháng trước kỳ nghỉ cuối tuần kéo dài 3 ngày ở Mỹ, tăng bởi lo ngại về tình trạng khô hạn ảnh hưởng đến sản lượng tại khu vực Midwest. Đáng chú ý, giá lúa mì phiên này tăng 4% lên mức cao nhất hai tháng.
Trên sàn Chicago phiên thứ Sáu, giá ngô kỳ hạn tháng 7 tăng 17 US cent lên 6,40-1/4 USD/bushel. sau khi đạt 6,41 USD, cao nhất kể từ ngày 19/4; đậu tương kỳ hạn tháng 7 tăng 38-1/4 US cent lên 14,66-1/2 USD/bushel, sau khi tăng lên 14,68-1/4 USD, cao nhất kể từ ngày 21/4. Tính chung cả tuần, hợp đồng này tăng 80 US cent, hay 5,77%, tăng tuần thứ 4 liên tiếp.
Giá lúa mì đỏ mềm vụ đông giao tháng 7 đóng cửa tăng 26-1/2 US cent lên 6,88 USD/bushel, sau khi tăng lên 6,97 USD, cao nhất kể từ ngày 19/4. Với mức tăng 9,16% trong tuần, lúa mì đã có 4 tuần tăng giá liên tiếp.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 7 đóng cửa phiên thứ Sáu tăng 0,43 US cent, hay 1,7%, lên 26,43 US cent/lb, tính chung cả tuần tăng 4,1%. Giá đường trắng kỳ hạn tháng 8 tăng 17,5 USD, hay 2,6%, lên 702,5 USD/tấn, tính chung cả tuần tăng 3,1%.
Nhà môi giới Czarnikow cho biết: "Sau khi đạt được hiệu suất mạnh mẽ vào ngày thứ Năm cùng với thời điểm hết hạn quyền chọn vào tháng 7 năm 2023, thị trường tiếp tục xu hướng tích cực".
Giá cà phê Robusta đạt mức cao kỷ lục vào thứ Sáu trong bối cảnh lo ngại ngày càng tăng về nguồn cung hạn chế ở Đông Nam Á và nhu cầu gia tăng ở Brazil.
Theo đó, cà phê robusta kỳ hạn tháng 9 kết thúc phiên thứ Sáu giảm 10 USD, hay 0,4%, xuống 2.747 USD/tấn, trước đó có lúc tăng lên mức kỷ lục 2.797 USD/tấn. Tính chung cả tuần, robusta tăng 2%. Cà phê arabica kỳ hạn tháng 9 phiên này giảm 2,2 US cent hay 1,2% xuống 1,8075 USD/lb.
Các đại lý cho biết giá cà phê trên thị trường nội địa Brazil, nhà xuất khẩu robusta lớn thứ 3 thế giới, tiếp tục tăng do nhu cầu trong nước tiếp tục mở rộng, trong khi nông dân vẫn chưa muốn bán.
Trong khi đó tại các nước xuất khẩu hàng đầu là Việt Nam và Indonesia, nguồn cung hết sức khan hiếm và không thể loại trừ khả năng tiếp tục giảm do hiện tượng thời tiết El Nino.
Giá cao su trên thị trường châu Á tăng trong phiên cuối tuần do kỳ vọng Trung Quốc gia tăng kích thích kinh tế. Tuy nhiên, tính chung cả tuần, giá cao su giảm,
Cụ thể, cao su kỳ hạn tháng 11 trên sàn giao dịch Osaka đóng cửa tăng 0,6 JPY hay 0,3% lên 211,3 JPY (1,5 USD)/kg, tính chung cả tuần giá giảm 0,3%.
Trên sàn Thượng Hải, giá cao su kỳ hạn tháng 9 tăng 60 CNY lên 12.130 CNY (1.705,33 USD)/tấn. Trên nền tảng SICOM của Sở giao dịch Singapore, hợp đồng cao su kỳ hạn giao tháng 7 tăng 0,4% lên 134,4 US cent/kg.
"Nhìn chung, thị trường kỳ hạn đang phụ thuộc vào Trung Quốc," Farah Miller, Giám đốc điều hành của Helixtap Technologies, một công ty dữ liệu độc lập về cao su cho biết.
Hiện tại, chúng ta dường như đang lơ lửng quanh các mức hỗ trợ, nhưng không có bất kỳ tin tức tích cực nào sắp tới, nguy cơ chuyển sang xu hướng giảm vẫn còn đó, bà nói thêm.
Trung Quốc sẽ tung thêm nhiều gói kích thích để hỗ trợ nền kinh tế đang chậm lại trong năm nay, nhưng những lo ngại về nợ và thoái vốn sẽ khiến các biện pháp nhằm hỗ trợ nhu cầu yếu trong lĩnh vực tiêu dùng và tư nhân tiếp tục được duy trì.
Trong khi đó, Ngân hàng Trung ương Nhật Bản duy trì chính sách tiền tệ cực kỳ nới lỏng trong ngày 16/6 bất chấp lạm phát cao hơn dự kiến, báo hiệu rằng họ sẽ vẫn là một ngoại lệ ôn hòa trong số các ngân hàng trung ương toàn cầu và tập trung vào việc hỗ trợ sự phục hồi kinh tế mong manh.
Giá hàng hóa thế giới:

 

ĐVT

Giá 9/6

Giá 16/6

16/6 so với 15/6

16/6 so với 15/6 (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

70,17

71,78

+1,16

+1,64%

Dầu Brent

USD/thùng

74,79

76,61

+0,94

+1,24%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

65.800,00

64.900,00

-80,00

-0,12%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,25

2,63

+0,10

+3,91%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

259,32

268,05

+3,88

+1,47%

Dầu đốt

US cent/gallon

236,10

255,14

+7,18

+2,90%

Dầu khí

USD/tấn

708,00

736,00

+23,75

+3,33%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

75.100,00

75.100,00

0,00

0,00%

Vàng New York

USD/ounce

1.977,20

1.971,20

+0,50

+0,03%

Vàng TOCOM

JPY/g

8.772,00

8.905,00

+60,00

+0,68%

Bạc New York

USD/ounce

24,41

24,34

+0,18

+0,75%

Bạc TOCOM

JPY/g

106,50

108,10

+0,80

+0,75%

Bạch kim

USD/ounce

1.011,70

986,84

-5,25

-0,53%

Palađi

USD/ounce

1.328,51

1.416,62

+16,42

+1,17%

Đồng New York

US cent/lb

378,90

389,85

-0,55

-0,14%

Đồng LME

USD/tấn

8.371,50

8.566,50

+8,50

+0,10%

Nhôm LME

USD/tấn

2.268,00

2.271,00

+21,50

+0,96%

Kẽm LME

USD/tấn

2.404,50

2.478,00

-2,50

-0,10%

Thiếc LME

USD/tấn

26.502,00

26.951,00

-274,00

-1,01%

Ngô

US cent/bushel

530,50

597,50

+23,00

+4,00%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

630,25

701,50

+28,75

+4,27%

Lúa mạch

US cent/bushel

358,50

404,50

+1,25

+0,31%

Gạo thô

USD/cwt

15,46

15,44

+0,09

+0,59%

Đậu tương

US cent/bushel

1.204,25

1.342,25

+50,00

+3,87%

Khô đậu tương

USD/tấn

366,60

403,30

+19,50

+5,08%

Dầu đậu tương

US cent/lb

51,96

57,87

+1,42

+2,52%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

664,90

710,40

+17,40

+2,51%

Cacao Mỹ

USD/tấn

3.175,00

3.236,00

-26,00

-0,80%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

186,65

180,75

-2,20

-1,20%

Đường thô

US cent/lb

25,02

26,09

+0,46

+1,79%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

257,95

265,65

-0,75

-0,28%

Bông

US cent/lb

81,82

80,10

+0,50

+0,63%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

--

--

--

--

Cao su TOCOM

JPY/kg

133,00

133,20

+0,90

+0,68%

Ethanol CME

USD/gallon

2,16

2,16

0,00

0,00%

Nguồn: Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)