Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng hơn 3% do hy vọng nhu cầu nhiên liệu tăng sau khi ngân hàng trung ương Trung Quốc hạ lãi suất cho vay ngắn hạn lần đầu tiên sau 10 tháng – động thái nhằm gia tăng động lực cho sự phục hồi sau đại dịch tại nền kinh tế lớn thứ hai thế giới và là nhà nhập khẩu dầu thô lớn nhất.
Kết thúc phiên, giá dầu Brent tăng 2,45 USD, tương đương 3,4%, lên 74,29 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ của Mỹ (WTI) tăng 2,30 USD, tương đương 3,4%, lên 69,42 USD/thùng.
Hôm thứ Hai, giá dầu thô giảm khoảng 4%, một phần do lo ngại về nền kinh tế Trung Quốc sau số liệu kinh tế đáng thất vọng vào tuần trước.
“Thị trường đang cho thấy sự hồi phục từ ngày hôm qua,” Phil Flynn, nhà phân tích của tập đoàn Price Futures, cho biết. "Đó là quá nhiều so với tình trạng u ám hôm vào thứ Hai." Chứng khoán, thường được giao dịch song song với dầu, cũng tăng vào thứ Ba.
Chiến lược gia Giovanni Staunovo của UBS cho biết: “Đối với những người tham gia thị trường bắt đầu xây dựng các vị thế mua trở lại, họ có thể cần phải chứng kiến lượng hàng tồn kho giảm nhiều hơn”.
Sự gia tăng nguồn cung trên toàn cầu đang đè nặng lên thị trường, cùng với những lo ngại về tăng trưởng nhu cầu, trước cuộc họp chính sách của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ, kết thúc vào thứ Tư.
Hầu hết những người tham gia thị trường đều kỳ vọng Fed sẽ giữ nguyên lãi suất, đặc biệt là sau khi dữ liệu cho thấy giá tiêu dùng của Mỹ hầu như không tăng trong tháng Năm.
Việc Fed tăng lãi suất đã củng cố đồng đô la, khiến dầu trở nên đắt đỏ hơn đối với những người nắm giữ các loại tiền tệ khác.
Ngân hàng Trung ương châu Âu dự kiến sẽ tăng lãi suất vào thứ Năm.
Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) hôm thứ Ba đã giữ nguyên dự báo tăng trưởng nhu cầu dầu toàn cầu năm 2023 ổn định tháng thứ 4 liên tiếp, làm tăng nhẹ kỳ vọng về tăng trưởng nhu cầu của Trung Quốc.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm do lợi suất trái phiếu Kho bạc Mỹ tăng trở lại, trong khi nhà đầu tư tăng đặt cược Fed sẽ giữ nguyên lãi suất sau khi dữ liệu cho thấy mức tăng giá tiêu dùng của Mỹ chậm lại trong tháng 5.
Giá vàng giao ngay kết thúc phiên giảm 0,7% xuống 1.942,59 USD/ounce, sau khi tăng khoảng 0,7% lúc đầu phiên; vàng giao sau giảm 0,6% xuống 1.958,6 USD/ounce.
Giá bạc giao ngay phiên này giảm 1,6% xuống 23,67 USD/ounce, bạch kim giảm 1,3% xuống 976,94 USD trong khi palladium tăng 0,8% lên 1.360,28 USD.
Lợi suất trái phiếu Kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm tăng lên 3,807% khiến vàng kém hấp dẫn.
“Vàng không thể giữ mức tăng sau khi CPI được công bố do lo ngại ngày càng tăng rằng lạm phát cơ bản dai dẳng có thể khiến Fed tiếp tục thắt chặt tiền tệ, chỉ ra rằng việc cắt giảm lãi suất ít hơn dự kiến vào năm 2024,” Tai Wong, chuyên gia phân tích độc lập ở New York, cho biết.
Chỉ số giá tiêu dùng của Mỹ trong tháng 5 tăng 4% so với cùng kỳ năm trước, mức tăng thấp nhất trong hơn hai năm nhưng vẫn trên mục tiêu 2% của Fed.
Trong 12 tháng tính tới tháng 5, chỉ số CPI lõi tăng 5,3% cho thế áp lực giá cơ bản vẫn mạnh.
Các nhà giao dịch hiện dự đoán hơn 90% khả năng ngân hàng trung ương Mỹ sẽ quyết định từ bỏ đợt tăng lãi suất thứ 11 liên tiếp và giữ nguyên lãi suất cơ bản ở mức 5,00% đến 5,25% vào thứ Tư. Trước báo cáo, các nhà giao dịch cho rằng có khoảng 1/4 cơ hội tăng lãi suất vào tháng 6.
Mặc dù vàng được coi là hàng rào chống lại lạm phát, nhưng lãi suất cao hơn để chế ngự áp lực giá thường ảnh hưởng đến sức hấp dẫn của tài sản không sinh lãi.
Daniel Ghali, chiến lược gia hàng hóa tại TD Securities, cho biết: “Những người tham gia thị trường đang thừa nhận ý tưởng rằng chúng ta có thể đang ở gần mức lãi suất đỉnh”.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng tăng lên mức cao nhất một tháng sau khi ngân hàng trung ương Trung Quốc giảm lãi suất vay ngắn hạn lần đầu tiên trong 10 tháng và số liệu cho thấy lạm phát của Mỹ tăng vừa phải.
Trên sàn giao dịch kim loại London (LME), giá đồng giao sau 3 tháng tăng 1,9% lên 8.470 USD/tấn sau khi chạm 8.515,5 USD/tấn, cao nhất kể từ ngày 10/5.
Trước đó các kim loại cơ bản tăng sau khi Trung Quốc cắt giảm lãi suất giúp khôi phục niềm tin thị trường và hỗ trợ quá trình phục hồi sau đại dịch.
Ole Hansen, trưởng bộ phận chiến lược hàng hóa của Saxo Bank, cho biết: “Các kim loại công nghiệp tăng giá sau khi PBOC Trung Quốc bất ngờ cắt giảm lãi suất, làm dấy lên suy đoán rằng một gói hỗ trợ kinh tế lớn hơn có thể sớm được công bố, có thể là trong tuần này”.
Chỉ số USD giảm sau số liệu của Mỹ, khiến giá kim loại trở nên hấp dẫn đối với những người mua bằng các ngoại tệ khác.
Việc giá đồng đang giao dịch quanh điểm trung bình 200 ngày, là 8.384 USD và đã vượt ngưỡng 8.450 USD, mức thấp hồi tháng 3 và tháng 4, có thể thu hút đà mua vào.
Dự trữ đồng có bảo hành tại các kho đã đăng ký của LME đã giảm 275 tấn xuống mức thấp nhất trong hai tháng là 41.375 tấn, dữ liệu của LME cho thấy hôm thứ Ba.
Một yếu tố nữa hỗ trợ cho các kim loại từ phía nguồn cung, một đám cháy đêm qua tại nhà máy luyện kim Ronnskar của Thụy Điển – một nhà sản xuất chính đồng, kẽm, chì và các kim loại khác – đã tạm dừng sản xuất cho tới khi có thông báo mới.
Về những kim loại cơ bản khác, giá nhôm tăng 0,3% lên 2.234,5 USD/tấn, kẽm tăng 1,2% lên 2.378,5 USD, thiếc tăng 0,9% lên 26.120 USD và chì tăng 0,3% lên 2.079 USD. Giá niken tăng 5,9% lên 21.970 USD, mức cao nhất trong một tháng.
Giá quặng sắt trên thị trường châu Á hồi phụch do tâm lý thị trường đã cải thiện sau khi ngân hàng trung ương Trung Quốc giảm lãi suất cho vay ngắn hạn lần đầu tiên trong 10 tháng.
Thông báo này được đưa ra sau khi giá quặng sắt tại Singapore giảm 3% trong ngày 12/6 sau khi tăng gần 15% trong 8 phiên liên tiếp trong bối cảnh hy vọng rằng Trung Quốc sẽ tung ra một loạt chính sách kích thích để vực dậy lĩnh vực bất động sản.
Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBOC) đã cắt giảm lãi suất kỳ hạn 7 ngày từ 2% xuống 1,90% vào thứ Ba khi bơm 2 tỷ nhân dân tệ thông qua công cụ trái phiếu ngắn hạn.
Thêm vào tâm lý lạc quan là một báo cáo của Bloomberg News cho biết Trung Quốc đang xem xét hàng chục biện pháp kích thích để hỗ trợ các lĩnh vực gồm thị trường bất động sản, lĩnh vực tiêu thụ thép lớn nhất. Động thái này được đưa ra sau một loạt dữ liệu kinh tế kém hơn dự kiến trong tháng 4 và tháng 5.
Kết thúc phiên 13/6, quặng sắt kỳ hạn tháng 7 trên sàn Singapore tăng 2,69% lên 111,8 USD/tấn.
Trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên, quặng sắt kỳ hạn tháng 9 tăng 0,69% lên 801,5 CNY (112,1 USD)/tấn.
Giá thép cây tại Thượng Hải tăng 1,88%, thép cuộn cán nóng tăng 1,77% và dây thép cuộn tăng 3,16%. Thép không gỉ giảm 0,56%.
Các nhà phân tích của Huatai Futures cho biết: “Giá thép tăng gần đây đã giúp mở rộng biên lợi nhuận thép và khuyến khích các nhà sản xuất thép dựa trên việc các lò cao khởi động lại hoạt động”. Họ cho biết thêm rằng các nguyên tắc cơ bản của thị trường sắt thép sẽ chỉ thay đổi sau khi chính sách giảm sản lượng thép của Trung Quốc được đưa vào thực hiện.
Trên thị trường nông sản, giá đậu tương Mỹ tăng lên cao nhất một tháng do lo lắng về tình trạng khô hạn tại khu vực trung tây nước Mỹ ảnh hưởng tới triển vọng vụ mùa, trong bối cảnh giá dầu thô tăng. Giá ngô hầu hết các kỳ hạn cũng tăng do xếp hạng tình trạng mùa vụ tại Mỹ thấp hơn dự kiến, nhưng hợp đồng kỳ hạn tháng 7 giảm do bán chốt lời và lo lắng về nhu cầu xuất khẩu của Mỹ yếu.
Kết thúc phiên giao dịch, đậu tương kỳ hạn tháng 7 trên sàn Chicago tăng 26-1/2 US cent lên 13,99-1/4 USD/bushel sau khi đạt 14,15-1/2, cao nhất kể từ ngày 12/5. Đậu tương vụ mới, kỳ hạn tháng 11, tăng 30-1/2 US cent lên 12,39-1/2 USD/bushel.
Giá ngô kỳ hạn tháng 7 đóng cửa giảm 4-3/4 US cent xuống 6,12-1/2 USD/bushel, sau khi tăng lên 6,25 USD cao nhất trong 7 tuần; ngô kỳ hạn tháng 12 tăng 2 US cent lên 5,51-1/4 USD/bushel. Giá lúa mì mềm đỏ vụ đông giao tháng 7 tăng 2-1/2 US cent lên 6,36-1/4 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 7 kết thúc phiên giảm 0,31 US cent xuống 25,16 US cent/lb; đường trắng kỳ hạn tháng 8 giảm 4,6 USD xuống 680,0 USD/tấn.
Các đại lý cho biết sản lượng cao ở Trung nam Brazil giúp giảm bớt lo ngại về nguồn cung khan hiếm.
Tập đoàn công nghiệp đường và ethanol Brazil, UNICA, hôm thứ Ba báo cáo sản lượng đường nước này nửa cuối tháng 5 đạt tổng cộng 2,9 triệu tấn, tăng 25,2% so với cùng kỳ năm trước.
Ngân hàng Citi nhận thấy vụ mùa ở Brazil giúp cải thiện tình trạng sẵn có, nhưng đã tăng dự báo về giá do rủi ro thời tiết.
Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 9 lúc đóng cửa tăng 8 USD lên 2.689 USD/tấn; cà phê arabica kỳ hạn tháng 9 giảm 1,7% xuống 1,787 USD/lb.
Các nhà kinh doanh cà phê robusta ở Việt Nam, nước sản xuất và xuất khẩu hàng đầu thế giới, đang tích trữ cà phê, để đảm bảo nguồn cung cho các hợp đồng. Trong khi đó, tập đoàn xuất khẩu Cecafe của Brazil cho biết giá cà phê robusta tại nước này tương đương với Việt Nam, có thể thúc đẩy xuất khẩu niên vụ mới.
Giá cao su trên thị trường Nhật Bản tăng bởi hy vọng việc cắt giảm lãi suất của Trung Quốc sẽ kích thích nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, trong khi chứng khoán của Nhật Bản mạnh lên cũng hỗ trợ tâm lý nhà đầu tư.
Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 11 trên sàn giao dịch Osaka đóng cửa tăng 0,7 JPY hay 0,3% lên 210,5 JPY (1,51 USD)/kg, sau khi giảm 3 phiên trước đó. Tại Thượng Hải cao su giao tháng 9 không đổi tại 11.960 CNY (1.670,34 USD)/tấn.
Giá cao su có thể tăng cùng các hàng hóa khác do ảnh hưởng tích cực từ việc cắt giảm lãi suất của ngân hàng cho lĩnh vực bất động sản Trung Quốc, mặc dù vâbt kỳ động thái tăng giá nào cũng có thể bị hạn chế do các biện pháp hiện nay là tương đối khiêm tốn. Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 7 trên nền tảng SICOM của sàn giao dịch Singapore tăng 0,2% lên 132,1 US cent/kg.
Giá cao su có thể tăng cùng với các mặt hàng khác do tác động tích cực của việc cắt giảm lãi suất ngân hàng đối với thị trường bất động sản Trung Quốc, mặc dù bất kỳ xu hướng tăng nào cũng có thể sẽ bị hạn chế do các biện pháp hiện tại là tương đối khiêm tốn, một thương nhân ở Singapore cho biết.
Lạm phát bán buôn của Nhật Bản trong tháng Năm đã chậm lại tháng thứ năm liên tiếp do giá nhiên liệu và hàng hóa sụt giảm.
Giá hàng hóa thế giới:

 

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

69,33

+2,21

+3,29%

Dầu Brent

USD/thùng

74,20

+2,36

+3,29%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

65.000,00

+1.100,00

+1,72%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,33

+0,07

+3,00%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

255,19

+6,93

+2,79%

Dầu đốt

US cent/gallon

239,51

+8,60

+3,72%

Dầu khí

USD/tấn

698,50

+21,50

+3,18%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

75.100,00

0,00

0,00%

Vàng New York

USD/ounce

1.959,20

-10,50

-0,53%

Vàng TOCOM

JPY/g

8.735,00

-38,00

-0,43%

Bạc New York

USD/ounce

23,87

-0,19

-0,81%

Bạc TOCOM

JPY/g

106,30

+0,20

+0,19%

Bạch kim

USD/ounce

983,36

-11,85

-1,19%

Palađi

USD/ounce

1.371,00

+17,60

+1,30%

Đồng New York

US cent/lb

384,30

+9,10

+2,43%

Đồng LME

USD/tấn

8.310,50

-61,00

-0,73%

Nhôm LME

USD/tấn

2.228,00

-40,00

-1,76%

Kẽm LME

USD/tấn

2.349,50

-55,00

-2,29%

Thiếc LME

USD/tấn

25.901,00

-601,00

-2,27%

Ngô

US cent/bushel

559,00

+9,75

+1,78%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

646,75

+13,00

+2,05%

Lúa mạch

US cent/bushel

376,75

+10,75

+2,94%

Gạo thô

USD/cwt

15,38

-0,09

-0,58%

Đậu tương

US cent/bushel

1.248,50

+39,50

+3,27%

Khô đậu tương

USD/tấn

378,30

+8,00

+2,16%

Dầu đậu tương

US cent/lb

53,36

+1,44

+2,77%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

675,90

+10,20

+1,53%

Cacao Mỹ

USD/tấn

3.178,00

+48,00

+1,53%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

178,70

-2,80

-1,54%

Đường thô

US cent/lb

24,82

-0,33

-1,31%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

254,55

-4,85

-1,87%

Bông

US cent/lb

81,20

-0,12

-0,15%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

--

--

--

Cao su TOCOM

JPY/kg

130,90

+0,10

+0,08%

Ethanol CME

USD/gallon

2,16

0,00

0,00%

 

 

 

Nguồn: Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)