Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm khoảng 1,5% trong phiên vừa qua sau khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) dự kiến sẽ tăng lãi suất hơn nữa trong năm nay, khiến thị trường lo lắng về nhu cầu chỉ vài giờ sau khi số liệu của chính phủ Mỹ cho thấy dự trữ dầu thô bất ngờ tăng mạnh.
Kết thúc phiên, giá dầu thô Brent giảm 1,09 USD, hay 1,5%, xuống 73,20 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 1,15 USD xuống 68,27 USD/thùng.
Cả hai loại dầu đã tăng hơn 1,5% lúc đầu phiên, sau khi tăng hơn 3% trong phiên liền trước do dự đoán nhu cầu nhiên liệu tăng sau khi ngân hàng trung ương Trung Quốc giảm lãi suất cho vay ngắn hạn.
Trong kỳ họp tháng 6, Fed đã giữ nguyên lãi suất nhưng báo hiệu chi phí đi vay có thể sẽ tăng thêm 0,5 điểm phần trăm vào cuối năm nay trong bối cảnh nền kinh tế mạnh hơn dự kiến và lạm phát giảm chậm lại.
Nhà phân tích Phil Flynn của Price Group cho biết: "Thị trường lo sợ rằng môi trường lãi suất cao hơn sẽ làm giảm nhu cầu dầu. Phản ứng từ đó đang đẩy giá dầu xuống".
Lãi suất cao hơn củng cố đồng đô la, làm cho hàng hóa bằng đồng tiền của Mỹ trở nên đắt đỏ hơn đối với những người nắm giữ các loại tiền tệ khác. Chứng khoán Phố Wall giảm, trong khi giá vàng giảm đà tăng sau quyết định và bình luận của Fed.
Dự trữ dầu thô của Mỹ tăng khoảng 8 triệu thùng trong tuần trước, theo số liệu của Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ, trong khi giới phân tích ước tính giảm 500.000 thùng. Dự trữ xăng và dầu diesel cũng tăng nhiều hơn dự kiến.
Trong khi đó, Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) nâng dự báo tăng trưởng nhu cầu dầu trong năm nay thêm 200.000 thùng/ngày lên 2,4 triệu thùng/ngày, đưa tổng nhu cầu đạt 102,3 triệu thùng/ngày.
Tuy nhiên, cơ quan này dự kiến những cơn gió ngược cản đà tăng trưởng kinh tế sẽ làm giảm mức tăng nhu cầu dầu xuống 860.000 thùng/ngày trong năm tới và việc sử dụng xe ô tô điện ngày càng tăng khiến tăng trưởng nhu cầu xuống 400.000 thùng/ngày trong năm 2028, đạt 105,7 triệu thùng/ngày. Số liệu tăng trưởng nhu cầu dầu của IEA năm 2023 cao hơn một chút so với số liệu của OPEC.
JP Morgan hạ dự báo của họ về giá dầu thô Brent trung bình trong năm nay 9 USD xuống 81 USD/thùng.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng mạnh vào đầu phiên nhưng hạ nhiệt về cuối phiên sau khi Fed giữ lãi suất không đổi đúng như dự đoán, nhưng cho biết sẽ tăng lãi suất thêm nữa trong năm nay.
Kết thúc phiên giao dịch, giá vàng giao ngay tăng 0,3% lên 1.949,89 USD/ounce; vàng giao sau tăng 0,5% lên 1.968,9 USD/ounce.
Giá bạc phiên này tăng 1,2% lên 23,97 USD/ounce, bạch kim ổn định ở mức 976,19 USD và palladium tăng 1,8% lên 1.385,77 USD.
Trong dự báo kinh tế mới đây, Fed chỉ ra rằng kinh tế mạnh hơn dự kiến và lạm phát giảm chậm lại dẫn tới chi phí vay có thể tăng tiếp 0,5 điểm phần trăm vào cuối năm nay.
Tai Wong, một nhà giao dịch kim loại độc lập có trụ sở tại New York, cho biết: “Hai lần tăng nữa trong biểu đồ dot trong năm nay là một bất ngờ đáng sợ.... Vàng giảm giá nhưng tiếp tục giữ ở mức kỹ thuật quan trọng - 1.940 USD”. “Nếu giá vàng không bị lao dốc sau tuyên bố sẽ tăng lãi suất tiếp, điều đó sẽ tạo động lực cho những người đầu cơ giá lên.”
Giá vàng rất nhạy cảm với việc tăng lãi suất của Mỹ, vì điều đó làm tăng chi phí cơ hội của việc nắm giữ vàng thỏi không mang lại lợi suất.
Các thương nhân hiện đang định giá 70% khả năng Fed tăng lãi suất vào tháng 7, tăng từ 60% trước đó, theo công cụ CME Fedwatch.
Trong khi đó, Chủ tịch Fed Jerome Powell cho biết còn quá sớm để nói rằng lạm phát sẽ tiếp tục giảm ngay cả khi các quan chức dự đoán áp lực giá sẽ tiếp tục có xu hướng hạ nhiệt.
Trước đó vào thứ Tư, dữ liệu cho thấy giá sản xuất của Mỹ trong tháng Năm giảm nhiều hơn dự kiến, báo hiệu lạm phát đang hạ nhiệt. Dữ liệu vào thứ Ba cho thấy giá tiêu dùng trong tháng trước đã được kiểm soát.
David Meger, giám đốc giao dịch kim loại của High Ridge Futures, cho biết: “Các thành viên của Fed mong đợi các đợt tăng lãi suất bổ sung trong năm nay do chúng tôi thấy lợi suất và đồng đô la tăng, điều này gây áp lực lên giá vàng thỏi”.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng tăng do USD giảm và dự đoán Trung Quốc sẽ công bố thêm các chương trình kích thích để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Trên sàn LME, giá đồng kết thúc phiên tăng 0,6% lên 8.509 USD/tấn sau khi chạm mức thấp 8.384 USD/tấn. Giá kim loại này đạt mức cao nhất 5 tuần là 8.515,5 USD/tấn trong ngày 13/6.
Đồng USD giảm sau khi số liệu lạm phát của Mỹ yếu bất ngờ, củng cố quan điểm Fed sẽ không tăng lãi suất trong cuộc họp tháng này, khiến giá các kim loại trở nên rẻ hơn cho người mua bằng các ngoại tệ khác.
Giá kẽm phiên này có lúc đạt mức cao nhất 3 tuần, là 2.491 USD/tấn sau khi công ty khai thác mỏ Boliden của Thụy Điển cho biết họ sẽ dừng sản xuất tại mỏ kẽm lớn nhất Châu Âu ở Ireland trong tháng tới do tổn thất tài chính. Kết thúc phiên, giá kẽm tăng 4,2% lên 2.482 USD/tấn.
Giá các kim loại cơ bản khác phiên này cũng được hỗ trợ bởi đồng đô la yếu đi. Giá nhôm tăng 0,9% lên 2.253 USD/tấn, chì tăng 1,6% lên 2.115 USD, thiếc tăng 2,8% lên 26.800 USD và niken tăng 3,6% lên 22.740 USD.
Một nhà kinh doanh kim loại cho biết: "Mọi người đang mong đợi thấy Trung Quốc hành động nhiều hơn nữa vì tăng trưởng kinh tế. Liệu điều đó có giúp kim loại hay không sẽ phụ thuộc vào loại kích thích nào".
Một cuộc thăm dò của Reuters cho thấy ngân hàng trung ương Trung Quốc được cho là sẽ cắt giảm chi phí đi vay của các khoản vay chính sách trung hạn lần đầu tiên sau 10 tháng vào thứ Năm.
Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên tiếp tục tăng do triển vọng Trung Quốc sẽ gia tăng kích thích tiền tệ và các biện pháp hỗ trợ để thúc đẩy sự phục hồi của nền kinh tế sau đại dịch.
Các nhà phân tích cho biết các dấu hiệu đà tăng trưởng đang chậm lại làm tăng dự đoán có thể cần nhiều kích thích hơn để duy trì sự phục hồi.
Quặng sắt kỳ hạn tháng 9 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên đóng cửa tăng 1,51% lên 804,5 CNY/tấn. Tại Singapore quặng sắt kỳ hạn tháng 7 giảm 0,1% xuống 111,55 USD/tấn.
Giá thép cây tại Thượng Hải tăng 1,08%, thép cuộn cán nóng tăng 1%, thép dây tăng gần 2% và thép không gỉ tăng 1,22%.
Sau khi ngân hàng trung ương Trung Quốc giảm lãi suất cho vay ngắn hạn lần đầu tiên trong 10 tháng, thị trường đã gia tăng kỳ vọng về các biện pháp hỗ trợ cho thị trường bất động sản yếu kém ở nước này.
Tuy nhiên, các nhà phân tích cảnh báo về những rủi ro đối với thị trường sắt thép nếu Chính phủ nước này can thiệp. Cơ quan hoạch định nhà nước Trung Quốc từ đầu năm tới nay đã đưa ra nhiều đợt cảnh báo vì tình trạng giá quặng sắt ngày càng tăng.
Trên thị trường nông sản, giá ngô, đậu tương và lúa mì Mỹ đồng loạt giảm do hoạt động bán chốt lời và lo ngại về việc lãi suất tăng sẽ hạn chế nhu cầu các loại hàng hóa.
Kết thúc phiên này, giá ngô kỳ hạn tháng 7 trên sàn Chicago giảm 4-3/4 US cent xuống 6,07-3/4 USD, một ngày sau khi đạt 6,25 USD, cao nhất kể từ ngày 21/4. Ngô vụ mới kỳ hạn tháng 12 giảm 2 US cent xuống 5,49-1/4 USD/bushel.
Đậu tương CBOT kỳ hạn tháng 7 đóng cửa giảm 11 US cent xuống 13,88-1/4 USD/bushel, thoái lui từ mức cao nhất một tháng tại 14,15-1/2 USD trong phiên trước đó.
Lúa mì CBOT mềm đỏ vụ đông giao tháng 7 giảm 6 US cent xuống 6,30-1/4 USD.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 7 lúc đóng cửa tăng 0,68 US cent hay 2,7% lên 25,84 US cent/lb; đường trắng kỳ hạn tháng 8 tăng 7,1 USD hay 1% lên 687,1 USD/tấn.
Các đại lý cho biết các nhà đầu cơ đã quay trở lại mua và tìm cách đẩy thị trường lên với sự hỗ trợ của một số hoạt động mua từ người tiêu dùng đường, trong bối cảnh các nhà sản xuất không mấy quan tâm đến việc ấn định giá dưới mức 26 US cent. Họ cũng lưu ý rằng đồng tiền của Brazil hôm thứ 4 tăng lên mức cao nhất so với đồng USD làm hạn chế việc bán của các nhà máy trong nước vì họ kiếm được ít reais hơn từ việc bán đường theo giá đô la.
Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 9 đóng cửa tăng 5 USD, hay 0,2%, lên 2.694 USD/tấn; cà phê arabica kỳ hạn tháng 9 tăng 0,0145 USD, hay 0,8%, lên 1,8015 USD/lb.
Tổ chức xuất khẩu Cecafe của Brazil cho biết giá robusta tại nước này tăng tương tự tại Việt Nam, điều này có thể thúc đẩy xuất khẩu, vốn chỉ đạt 131.689 bao trong tháng 5.
Giá cao su trên thị trường Nhật Bản giảm trái ngược với giá tưng trên các sàn Thượng Hải và Singapore do các nhà đầu tư đánh giá lại vị thế của họ sau khi cân nhắc những lo lắng về khả năng dư thừa nguồn cung trên toàn cầu.
Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 11 trên sàn giao dịch Osaka kết thúc phiên giảm 0,8 JPY hay 0,4% xuống 209,7 JPY (1,5 USD)/kg, thoái lui sau khi tăng lúc đầu phiên. Tại Thượng Hải cao su giao tháng 9 tăng 180 CNY lên 12.085 CNY (1.686,41 USD)/tấn. Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 7 trên nền tảng SICOM của Sở giao dịch Singapore được giao dịch lần cuối ở mức 133,7 US cent/kg, tăng 1,1%.
Ngân hàng trung ương Trung Quốc lần đầu tiên hạ lãi suất cho vay ngắn hạn sau 10 tháng, nhằm giúp khôi phục niềm tin của thị trường và hỗ trợ nền kinh tế lớn thứ hai thế giới phục hồi sau đại dịch đang bị đình trệ. Tuy nhiên, dữ liệu được công bố sau đó vào thứ Ba cho thấy tăng trưởng tín dụng của Trung Quốc đã chậm lại đáng kể trong tháng 5 và các khoản cho vay mới của ngân hàng tăng ít hơn dự kiến, dấu hiệu mới nhất của suy thoái kinh tế, thúc đẩy kỳ vọng rằng các biện pháp kích thích hơn nữa sẽ được áp dụng.
Giá hàng hóa thế giới:

 

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

68,25

-0,02

-0,03%

Dầu Brent

USD/thùng

73,16

-0,04

-0,05%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

64,510,00

-670,00

-1,03%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,32

-0,02

-0,77%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

255,41

-0,05

-0,02%

Dầu đốt

US cent/gallon

234,94

-0,83

-0,35%

Dầu khí

USD/tấn

684,75

-9,25

-1,33%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

75,100,00

0,00

0,00%

Vàng New York

USD/ounce

1,946,20

-22,70

-1,15%

Vàng TOCOM

JPY/g

8,754,00

0,00

0,00%

Bạc New York

USD/ounce

23,53

-0,57

-2,39%

Bạc TOCOM

JPY/g

105,40

+0,10

+0,09%

Bạch kim

USD/ounce

972,00

-9,14

-0,93%

Palađi

USD/ounce

1,372,23

-18,13

-1,30%

Đồng New York

US cent/lb

382,20

-5,45

-1,41%

Đồng LME

USD/tấn

8,509,00

+49,00

+0,58%

Nhôm LME

USD/tấn

2,253,50

+21,50

+0,96%

Kẽm LME

USD/tấn

2,486,50

+105,00

+4,41%

Thiếc LME

USD/tấn

26,762,00

+697,00

+2,67%

Ngô

US cent/bushel

553,75

+4,50

+0,82%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

640,00

-1,25

-0,19%

Lúa mạch

US cent/bushel

387,50

-1,75

-0,45%

Gạo thô

USD/cwt

15,29

+0,03

+0,20%

Đậu tương

US cent/bushel

1,242,25

+2,25

+0,18%

Khô đậu tương

USD/tấn

375,90

+1,30

+0,35%

Dầu đậu tương

US cent/lb

53,63

-0,08

-0,15%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

671,60

-0,30

-0,04%

Cacao Mỹ

USD/tấn

3,202,00

+18,00

+0,57%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

180,15

+1,45

+0,81%

Đường thô

US cent/lb

25,37

+0,60

+2,42%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

256,40

+2,35

+0,93%

Bông

US cent/lb

80,05

-0,06

-0,07%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

--

--

--

Cao su TOCOM

JPY/kg

132,10

-0,40

-0,30%

Ethanol CME

USD/gallon

2,16

0,00

0,00%

 

 

 

Nguồn: Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)