Năng lượng: Giá dầu giảm
Phiên cuối tuần, giá dầu tăng hơn 3 USD mỗi thùng do nguồn cung thắt chặt. Tuy nhiên, tính chung cả tuần, giá giảm tuần thứ 2 liên tiếp do lo ngại lãi suất tăng có thể đẩy nền kinh tế thế giới vào suy thoái.
Kết thúc phiên này, dầu thô Brent tăng 3,07 USD hay 2,8% lên 113,12 USD/thùng, dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 3,35 USD hay 3,2% lên 107,62 USD/thùng.
Tính chung cả tuần, giá dầu giảm mạnh.
John Kilduff, đối tác của Again Capital ở New York, cho biết Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) "đã tỏ ý rất ‘diều hâu’ làm suy yếu đà tăng giá dầu, nhưng tâm lý đang thay đổi một chút, đặc biệt là dựa trên dữ liệu kinh tế mạnh mẽ".
Hôm thứ Năm, Chủ tịch Fed Jerome Powell cho biết trọng tâm của ngân hàng trung ương là kiềm chế lạm phát "vô điều kiện", làm tăng thêm lo ngại về việc tăng lãi suất nhiều hơn nữa.
Kết quả một cuộc khảo sát hôm thứ Sáu cho thấy tâm lý người tiêu dùng Mỹ đã giảm xuống mức thấp kỷ lục trong tháng Sáu ngay cả khi triển vọng lạm phát được cải thiện chút ít. Ngoài ra, giá dầu thô được hỗ trợ từ việc gián đoạn sản xuất ở Libya, một thành viên Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) do tình hình bất ổn.
Cuộc xung đột Nga – Ukraine làm trầm trọng thêm tình trạng nguồn cung khan hiếm trong năm nay, trong bối cảnh nhu cầu đang phục hồi sau đại dịch, và giá dầu đã gần tới mức cao nhất mọi thời đại, là 147 USD/thùng như đã đạt được vào năm 2008.
Xu hướng tăng giá dầu thô càng được hỗ trợ bởi hoạt động sản xuất ở Libya – thành viên của OPEC - gần như bị ngưng trệ do tình hình bất ổn. Hôm thứ Năm, Bộ trưởng Dầu mỏ Libya cho biết Chủ tịch Tập đoàn Dầu mỏ Quốc gia chưa công bố dữ liệu về sản lượng, làm dấy lên nghi ngờ về số liệu - được công bố vào tuần trước.
Nhà phân tích Stephen Brennock của công ty môi giới dầu PVM cho biết lo ngại suy thoái kinh tế đã chi phối tâm lý, tuy nhiên "quan điểm chung của các nhà phân tích và nhà kinh doanh vẫn là thị trường dầu sẽ chứng kiến nhu cầu cao và nguồn cung thắt chặt trong những tháng mùa hè, do đó hạn chế những tác động từ suy thoái kinh tế."
Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ và các đồng minh của tổ chức này, được gọi là OPEC +, sẽ nhóm họp vào ngày 30/6 và dự kiến sẽ bám sát kế hoạch chỉ tăng nhẹ sản lượng dầu trong tháng 7 và tháng 8.
Theo công ty dịch vụ năng lượng Baker Hughes, các công ty năng lượng Mỹ tuần này bổ sung số giàn khoan dầu và khí tự nhiên, tăng tuần thứ hai liên tiếp trong đợt tăng dài kỷ lục - 23 tháng, do giá dầu cao và sự hối thúc của chính phủ.
Kim loại quý: Giá vàng giảm tuần thứ 2 liên tiếp
Giá vàng tăng trong phiên cuối tuần do đồng USD giảm và lo ngại suy thoái đã làm tăng sức hấp dẫn của vàng như một nơi trú ẩn an toàn. Tuy nhiên, việc lãi suất tăng cản trở giá vàng đi lên, là nguyên nhân chính khiến giá vàng tính chung cả tuần giảm tuần thứ 2 liên tiếp.
Kết thúc phiên này, giá vàng giao ngay tăng 0,4% lên 1.830,22 USD/ounce, sau khi chạm mức thấp nhất trong vòng một tuần là 1.816,1 USD; vàng kỳ hạn tháng 8 tăng lên 1.830,3 USD/ounce.
Chỉ số Dollar index phiên này giảm 0,2%, làm tăng sức hấp dẫn của vàng.
Chiến lược gia hàng hóa Daniel Ghali của TD Securities cho biết: “Có một sự hợp nhất của các lực lượng đang thúc đẩy giá vàng theo cả hai hướng, buộc kim loại này phải duy trì trong một biên độ nhỏ”, “Chúng ta có nguy cơ suy thoái và các dấu hiệu cho thấy nguy cơ sắp xảy ra suy thoái tăng trưởng toàn cầu, khiến dòng tiền đổ vào vàng như một nơi trú ẩn an toàn. Mặt khác, chúng ta có cam kết của Fed trong việc chống lạm phát, góp phần làm tăng đáng kể lãi suất thực." Vàng thỏi được coi là một biện pháp phòng ngừa lạm phát nhưng lãi suất thực của Mỹ tăng làm tăng chi phí cơ hội của việc nắm giữ vàng.
Nhà phân tích Carsten Fritsch của Commerzbank cho biết giá vàng có khả năng tăng nhẹ trong nửa cuối năm nay, dự báo đạt 1.900 USD/ounce. Tuy nhiên, trong ngắn hạn, Fed sẽ tăng lãi suất tích cực không hỗ trợ cho vàng.
Trên thị trường giao ngay, các đại lý cho biết giá giảm trong tuần này tại Ấn Độ để thu hút người mua khi mùa cưới kết thúc, trong khi một số người tiêu dùng tại Trung Quốc mua vàng đề phòng ngừa những lo ngại về kinh tế.
Về các kim loại quý khác, bạc phiên này tăng 1,2% lên 21,19 USD/ounce, bạch kim tăng 0,2% lên 908,50 USD, trong khi palladium tăng 1,7% lên 1.876,14 USD.
Kim loại công nghiệp: Giá giảm trong tuần
Giá đồng giảm trong phiên cuối tuần, tính chung cả tuần giảm mạnh nhất trong một năm, giảm khoảng 6,5%, do các nhà đầu tư lo ngại rằng những nỗ lực của các ngân hàng trung ương để ngăn chặn lạm phát sẽ ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế và làm giảm nhu cầu kim loại.
Giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn giao dịch kim loại London kết thúc phiên cuối tuần giảm 0,5% xuống 8.367 USD/tấn, sau khi chạm 8.122,5 USD/tấn, giảm 25% từ mức cao kỷ lục hồi tháng 3 và là mức thấp nhất kể từ tháng 2/2021.
Giá đồng có thể giảm về bằng chi phí sản xuất, quanh 7.000 – 7.500 USD/tấn, nhưng nguồn cung hạn hẹp và nhu cầu ngày càng tăng để sử dụng trong truyền tải điện vào cuối thập kỷ này sẽ khiến giá tăng.
Giá các kim loại công nghiệp khác cũng sụt giảm trong phiên này, với nickel giảm khoảng 13% trong tuần và thiếc giảm 22%, giảm một tuần mạnh nhất kể từ năm 2005. Giá nickel trên sàn LME phiên này giảm 6,9% xuống 22.375 USD/tấn và giao dịch ở mức thấp nhất trong 5 tháng.
Phiên cuối tuần, giá thiếc giảm 10,1% xuống 24.260 USD/tấn, giảm hơn 50% so với mức cao hồi tháng 3, trong phiên có lúc giá giảm xuống 22.980 USD/tấn.
Giá nhôm cùng phiên giảm giảm 0,8% xuống 2,457 USD và giảm khoảng 2% trong tuần này; kẽm giảm 3,9% xuống 3.354,50 USD và giảm khoảng 5% trong tuần này, chì giảm 1,2% xuống 1,925 USD, tính chung cả tuần giảm 7%.
Giá quặng sắt tại Trung Quốc tăng sau 10 phiên sụt giảm, trái lại giấ ở Singapore giảm do triển vọng nhu cầu yếu từ Trung Quốc - nhà sản xuất thép hàng đầu thế giới.
Kết thúc phiên cuối tuần, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên tăng 1% lên 736 CNY (109,9 USD)/tấn. Tính chung cả tuần, giá giảm 11%, mức giảm mạnh nhất kể từ giữa tháng 2. Trên sàn giao dịch Singapore, quặng sắt giao tháng 7 giảm 1% xuống 115 USD/tấn.
Trên thị trường giao ngay, quặng sắt hàm lượng 62% Fe xuất sang Trung Quốc giao dịch tại 117,5 USD/tấn trong ngày 23/5, theo số liệu của công ty SteelHome. Giá đã giảm xuống 112,5 USD trong ngày trước đó, mức thấp nhất kể từ ngày 10/12/2021.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép thanh tăng 0,3% trong phiên cuối tuần, thép cuộn cán nóng tăng 0,1%, thép không gỉ giảm 3,2%.
Những hạn chế do Covid-19 đã gây áp lực giảm trên lĩnh vực bất động sản và những gián đoạn của hoạt động xây dựng bởi thời tiết không thuận lợi là những yếu tố bất lợi cho lĩnh vực thép của Trung Quốc.
Tại trung tâm sản xuất thép của Trung Quốc, thành phố Đường Sơn, 56 trong số 126 lò cao đã bị đóng cửa để bảo dưỡng, do các nhà máy phải vật lộn để đối phó với lợi nhuận sụt giảm trong bối cảnh nhu cầu yếu và tồn kho cao.
Nông sản: Giá đồng loạt giảm
Tuần qua, giá ngũ cốc, cà phê và đường đồng loạt giảm.
Kết thúc phiên giao dịch cuối tuần 24/6, giá các mặt hàng nông sản kỳ hạn trên sàn giao dịch Chicago (Mỹ, CBOT) đi ngược chiều nhau, với giá ngô và đậu tương tăng còn giá lúa mỳ lại giảm.
Giá đậu tương Mỹ tăng, kết thúc chuỗi giảm 4 phiên liên tiếp do việc săn giá hời và giá dầu thô mạnh. Theo đó, giá đậu tương kỳ hạn tháng 7 trên sàn giao dịch Chicago đóng cửa tăng 17-1/2 US cent lên 16,10-3/4 USD/bushel. Các nhà xuất khẩu Mỹ đã bán 10 triệu bushel đậu tương để giao hàng cho niên vụ mới vào phiên ngày 24/6, với tổng khối lượng xuất khẩu đậu tương theo hợp đồng trong giai đoạn 2022-2023 đạt mức kỷ lục 491 triệu bushel, tăng so với 277 triệu bushel của cùng kỳ năm ngoái.
Giá ngô phiên này cũng tăng sau khi thị trường này giảm 3,3% trong 4 phiên. Theo đó, giá ngô trên sàn Chicago kỳ hạn tháng 7 tăng 3-1/2 US cent lên 7,50-1/4 USD/bushel. Hợp đồng kỳ hạn tháng 12 tăng 18-1/2 US cent lên 6,74 USD.
Giá ngô tăng mạnh sau khi triển vọng khí hậu của Mỹ ngày càng đối diện với nhiều rủi ro. Thời tiết khô hạn sẽ ảnh hưởng đến sản xuất ở nhiều khu vực, với nắng nóng trên diện rộng có thể xuất hiện vào đầu tháng Bảy. Nhiều nguy cơ đang gia tăng, và câu hỏi đặt ra là về lâu dài liệu sản xuất của Mỹ và khu vực Bắc bán cầu có đáp ứng nhu cầu toàn cầu hay không.
Ngày 25/6, Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) cho biết, trong tuần kết thúc vào ngày 16/6, Mỹ đã xuất khẩu 26 triệu bushels ngô, tăng so với 6 triệu bushel trong tuần trước, xuất khẩu lúa mỳ đạt 18 triệu bushels, tăng từ 9 triệu bushel.
Giá lúa mì phiên này chịu áp lực bởi vụ thu hoạch đang diễn ra ở các khu vực trồng lúa mì vụ đông của Mỹ. Lúa mì vụ đông mềm đỏ kỳ hạn tháng 7 giảm 13-1/2 US cent xuống 9,23-3/4 USD/bushel và lúa mì vụ đông cứng đỏ kỳ hạn tháng 7 giảm 12 US cent xuống 9,93 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 7 lúc đóng cửa phiên cuối tuần giảm 0,1% xuống 18,37 US cent/lb, sau khi giảm xuống mức 18,23 US cent, thấp nhất kể từ ngày 1/3. Đường trắng kỳ hạn tháng 8 đóng cửa giảm 7,4 USD hay 1,3% xuống 543,6 USD/tấn.
Đồng USD mạnh và real của Brazil yếu là yếu tố bất lợi cho đường, cà phê. Các quỹ phòng hộ đang bán đường kỳ hạn do kinh tế vĩ mô yếu kém và lo ngại suy thoái và thời tiết thuận lợi hơn.
Giá cà phê giảm trong phiên cuối tuần. Do cà phê arabica và ca cao là những mặt hàng xa xỉ, cầu tiêu dùng và chi tiêu đang chậm lại cũng như niềm tin thấp bởi cuộc xung đột Ukraine sẽ ảnh hưởng tới nhu cầu và giá của những sản phẩm này.
Về thị trường cà phê thế giới, giá cà phê Robusta trên sàn ICE Europe – London giảm trong tuần này. Cụ thể, giá cà phê Robusta giao tháng 9/2022 giảm 42 USD xuống 2.044 USD/tấn và giá Robusta giao tháng 11/2022 giảm 39 USD xuống còn 2.037 USD/tấn. Khối lượng giao dịch rất cao trên mức trung bình.
Tương tự, giá cà phê Arabica trên sàn ICE US – New York giao tháng 9/2022 giảm 5,75 US cent xuống 223,25 cent/lb và giá Arabica giao tháng 12/2022 giảm 5,80 US cent xuống 221,45 centlb. Khối lượng giao dịch trên mức trung bình.
Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) công bố báo cáo về cung – cầu thị trường cà phê toàn cầu. Theo báo cáo, dự báo sản lượng toàn cầu trong niên vụ cà phê 2022-2023 sẽ tăng 4,7% so với niên vụ trước lên 174,95 triệu bao, chủ yếu là do vụ mùa cà phê Arabica của Brazil cho sản lượng cao. USDA cũng dự báo tồn kho cà phê toàn cầu cuối niên vụ 2022-2023 sẽ tăng 6,3% lên 34,70 triệu bao.
Giá cao su Nhật Bản tương đối ổn định trong phiên cuối tuần do đồng yen mạnh lên và lo ngại về lạm phát trong nước tăng cao nhưng hy vọng về nhu cầu cao su tự nhiên phục hồi tại Trung Quốc, nước tiêu thụ hàng đầu thế giới.
Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 11 trên sàn Osaka kết thúc phiên đóng cửa tăng 0,1 JPY lên 253,9 JPY (1,89 USD)/kg, tính chung cả tuần giá giảm 0,4%.
Giá cao su kỳ hạn tháng 9 tại Thượng Hải tăng 90 CNY lên 12.800 CNY (1.912,30 USD)/tấn.
Lạm phát tiêu dùng lõi hàng năm của Nhật Bản trong tháng 5 vượt mục tiêu của ngân hàng trung ương tháng thứ hai liên tiếp, làm nổi bật sức ép ngày càng tăng với nền kinh tế của nước này khi chi phí nguyên liệu thô toàn cầu tăng cao. Thăm dò của Reuters cho thấy hoạt động sản xuất của Nhật Bản có thể giảm trong tháng 5, giảm tháng thứ hai liên tiếp do gián đoạn chuỗi cung ứng bởi việc phong tỏa Covid-19 ở Trung Quốc.
Nhu cầu cao su tự nhiên tại Trung Quốc trong tháng 6 dường như được cải thiện so với tháng 4 và tháng 5.
Giá hàng hóa thế giới

 

 

ĐVT

Giá 17/6

Giá 24/6

24/6 so với 23/6

24/6 so với 23/6 (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

110,17

107,62

+3,35

+3,21%

Dầu Brent

USD/thùng

113,78

113,12

+3,07

+2,79%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

81.450,00

78.660,00

+1.820,00

+2,37%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

6,71

6,22

-0,02

-0,30%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

382,80

388,48

+11,92

+3,17%

Dầu đốt

US cent/gallon

446,93

436,29

+2,50

+0,58%

Dầu khí

USD/tấn

1.319,75

1.302,00

+11,50

+0,89%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

84.500,00

84.500,00

0,00

0,00%

Vàng New York

USD/ounce

1.839,80

1.830,30

+0,50

+0,03%

Vàng TOCOM

JPY/g

7.949,00

7.918,00

+45,00

+0,57%

Bạc New York

USD/ounce

21,66

21,16

+0,07

+0,32%

Bạc TOCOM

JPY/g

94,30

91,50

+0,80

+0,88%

Bạch kim

USD/ounce

935,53

911,08

+0,80

+0,09%

Palađi

USD/ounce

1.852,50

1.882,75

+32,84

+1,78%

Đồng New York

US cent/lb

403,70

374,45

-0,20

-0,05%

Đồng LME

USD/tấn

8.961,50

8.381,00

-28,00

-0,33%

Nhôm LME

USD/tấn

2.498,00

2.456,00

-21,50

-0,87%

Kẽm LME

USD/tấn

3.523,50

3.350,00

-141,50

-4,05%

Thiếc LME

USD/tấn

31.184,00

24.590,00

-2.395,00

-8,88%

Ngô

US cent/bushel

731,00

674,00

+18,50

+2,82%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

1.046,75

936,50

-12,75

-1,34%

Lúa mạch

US cent/bushel

664,50

518,25

-20,25

-3,76%

Gạo thô

USD/cwt

16,60

16,41

-0,06

-0,39%

Đậu tương

US cent/bushel

1.537,50

1.424,25

+8,75

+0,62%

Khô đậu tương

USD/tấn

407,00

390,70

+2,80

+0,72%

Dầu đậu tương

US cent/lb

71,06

64,95

+1,06

+1,66%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

964,10

870,20

+25,50

+3,02%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.433,00

2.432,00

-1,00

-0,04%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

227,40

223,25

-5,75

-2,51%

Đường thô

US cent/lb

18,73

18,31

-0,05

-0,27%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

172,00

161,25

-3,65

-2,21%

Bông

US cent/lb

118,29

98,05

-3,96

-3,88%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

581,10

581,00

-6,30

-1,07%

Cao su TOCOM

JPY/kg

161,60

161,70

+1,00

+0,62%

Ethanol CME

USD/gallon

2,16

2,16

0,00

0,00%

 

 

 

Nguồn: Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)