Năng lượng: Giá dầu giảm trong tuần
Phiên cuối tuần, giá dầu tăng do kỳ vọng OPEC+ sẽ thảo luận về việc cắt giảm sản lượng tại cuộc họp vào ngày 5/9/2022, song mối lo ngại các hạn chế Covid-19 của Trung Quốc và nền kinh tế toàn cầu suy yếu đã hạn chế đà tăng. Tính chung cả tuần, giá dầu vẫn giảm.
Chốt phiên giao dịch ngày 2/9, dầu thô Brent tăng 66 US cent lên 93,02 USD/thùng và dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 26 US cent lên 86,87 USD/thùng. Cả hai loại dầu đều giảm 3% xuống mức thấp nhất 2 tuần trong phiên trước đó.
Tính chung cả tuần, giá dầu Brent giảm 7,9% và dầu WTI giảm 6,7%.
Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ và các đồng minh do Nga dẫn đầu – nhóm được gọi là OPEC+, sẽ họp vào ngày 5/9/2022, trong bối cảnh dự kiến nhu cầu sẽ giảm, song nước sản xuất hàng đầu – Saudi Arabia – cho biết nguồn cung vẫn thắt chặt.
Ba nguồn tin của OPEC+ cho biết nhiều khả năng OPEC+ sẽ giữ nguyên hạn ngạch sản lượng dầu cho tháng 10 tại cuộc họp sắp tới, mặc dù một số nguồn tin không loại trừ việc tổ chức này sẽ cắt giảm sản lượng để hỗ trợ giá đã trượt khỏi mức cao ngất ngưởng hồi đầu năm.
Trong tuần này, OPEC+ điều chỉnh cán cân thị trường trong năm nay và dự kiến cán cân cung cầu sẽ thiếu hụt 400.000 thùng/ngày (bpd), so với mức thiếu hụt 900.000 bpd dự báo trước đó. Nhóm các nhà sản xuất dự kiến thị trường dầu mỏ năm 2023 sẽ thiếu hụt 300.000 bpd.
Các công ty năng lượng của Mỹ trong tuần này đã cắt giảm số lượng giàn khoan dầu và khí đốt tự nhiên lần thứ tư trong vòng 5 tuần. Công ty dịch vụ dầu khí Baker Hughes (Mỹ) cho biết, số lượng giàn khoan dầu khí đang hoạt động của Mỹ, một chỉ báo ban đầu về sản lượng trong tương lai, đã giảm 5 giàn xuống còn 760 giàn trong tuần tính đến ngày 2/9.
Kim loại quý: Giá vàng giảm tuần thứ 3 liên tiếp
Trong phiên cuối tuần, giá vàng tăng gần 1%, do đồng USD giảm sau số liệu việc làm của Mỹ hầu như phù hợp với kỳ vọng. Song tính chung cả tuần, giá vàng giảm tuần thứ 3 liên tiếp, chịu áp lực bởi môi trường lãi suất tăng.
Kết thúc phiên 2/9, giá vàng giao ngay tăng 0,8% lên 1.710,29 USD/ounce. Giá vàng kỳ hạn tháng 12/2022 trên sàn New York tăng 0,8% lên 1.722,6 USD/ounce.
Tính chung cả tuần, giá vàng giảm tuần thứ 3 liên tiếp.
Trong phiên này, chỉ số đồng USD giảm 0,1%, khiến vàng trở nên rẻ hơn khi mua bằng tiền tệ khác, trong khi lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ cũng giảm.
Yếu tố chính giúp giá vàng tăng trong phiên cuối tầun là số liệu việc làm hàng tháng của Mỹ được công bố vào thứ Sáu.
Thị trường lao động Mỹ đang phát triển mạnh mẽ với 315.000 việc làm mới trong tháng Tám. Con số trên về cơ bản phù hợp với ước tính của Phố Wall. Số lượng người tham gia lực lượng lao động cũng đã được cải thiện - một dấu hiệu rất đáng khích lệ cho các thị trường. Tuy nhiên, tỷ lệ thất nghiệp tổng thể đã tăng từ 3,5% trong tháng Bảy lên lên 3,7% trong tháng Tám.
Trong giai đoạn gần đây, giá vàng đã chịu áp lực khá lớn khi các ngân hàng trung ương toàn cầu tăng lãi suất để chống lại lạm phát tăng cao. Lãi suất cao hơn làm tăng chi phí cơ hội của việc nắm giữ vàng, vốn là một tài sản không sinh lợi.
Nhà phân tích Ole Hansen của Ngân hàng Saxo cho biết trong một lưu ý rằng về mặt kỹ thuật, giá kim loại quý này cần phải vượt qua đường xu hướng tính từ mức đỉnh tháng Ba - hiện ở mức 1.770 USD, trước khi thực sự ghi nhận phục hồi.
Về những kim loại quý khác, giá bạc tăng 0,8% lên 17,99 USD/ounce, bạch kim tăng 0,8% lên 834,77 USD/ounce và palladium tăng 0,5% lên 2.022,43 USD/ounce. Tuy hiên, cả 3 loại này có tuần giảm thứ 3 liên tiếp.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng loạt giảm trong tuần
Phiên cuối tuần, giá đồng hồi phục khỏi mức thấp nhất hơn 1 tháng sau khi số liệu việc làm của Mỹ thúc đẩy Cục Dự trữ Liên bang Mỹ có thể kiềm chế lộ trình tăng lãi suất tích cực.
Giá đồng trên sàn London tăng 0,7% lên 7.648 USD/tấn, sau khi chạm mức thấp nhất (7.510 USD/tấn) kể từ ngày 27/7/2022 lúc đầu phiên giao dịch. Tuy nhiên, tính chung cả tuần, giá đồng giảm.
Số liệu việc làm cho thấy các nhà tuyển dụng Mỹ đã thuê nhiều lao động hơn dự kiến trong tháng 8/2022, song mức tăng lương khiêm tốn và tỉ lệ thất nghiệp tăng 3,7%, có thể giảm bớt áp lực buộc Fed phải đưa ra việc tăng lãi suất 75 điểm cơ bản - lần thứ 3 - trong tháng này.
Về những kim loại cơ bản khác, giá nhôm phiên cuối tuần tăng 0,2% lên 2.299,50 USD/tấn, niken tăng 1,1% lên 20.530 USD và thiếc tăng 0,3% lên 21.120 USD sau khi chạm mức thấp nhất 20 tháng, nhưng kẽm giảm 3,7% xuống 3.140 USD và chì giảm 0,2% xuống 1,896,50 USD. Tuy nhiên, tính chung cả tuần, giá các kim loại này đều giảm.
Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên giảm xuống mức thấp nhất hơn 5 tuần, cùng với đó là giá quặng sắt chạm mức thấp tại Singapore, do lo ngại nhu cầu khi nước sản xuất thép hàng đầu – Trung Quốc – phải đối mặt với đợt bùng phát Covid-19 mới.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2023 trên sàn Đại Liên giảm 2,8% xuống 667,5 CNY (96,7 USD/tấn), sau khi chạm mức thấp nhất kể từ ngày 26/7/2022 (652 CNY/tấn) trong đầu phiên giao dịch.
Đồng thời, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 10/2022 trên sàn Singapore giảm 1,1% xuống 94,4 USD/tấn, trước đó trong phiên chạm mức thấp 92,75 USD/tấn.
Giá quặng sắt 62% Fe giao ngay sang Trung Quốc chạm 98 USD/tấn – thấp nhất kể từ tháng 11/2021, công ty tư vấn SteelHome cho biết.
Trên sàn Thượng Hải giá thép cây giảm 1,3%, thép cuộn cán nóng giảm 2,1%, song thép không gỉ tăng 1,5%.
Trung Quốc có khả năng điều chỉnh chính sách tiền tệ, khi các biện pháp kích thích đã được kiềm chế và lạm phát tiêu dùng vẫn được kiểm soát, phát ngôn viên của ngân hàng trung ương nước này cho biết.
Nông sản: Giá đậu tương, cà phê và đường giảm nhẹ, ngô và lúa mì tăng
Phiên cuối tuần, giá lúa mì, ngô và đậu tương Mỹ tăng, do hoạt động mua bù thiếu trước kỳ nghỉ cuối tuần kéo dài 3 ngày của Mỹ, dẫn đầu là dầu thô và các hàng hóa khác tăng, do lo ngại về việc tăng lãi suất tích cực từ Cục Dự trữ Liên bang Mỹ.
Trên sàn Chicago, giá lúa mì kỳ hạn tháng 12/2022 tăng 16-3/4 US cent lên 8,11 USD/bushel. Giá ngô kỳ hạn tháng 12/2022 tăng 7-3/4 US cent lên 6,65-3/4 USD/bushel và giá đậu tương kỳ hạn tháng 11/2022 tăng 25-3/4 US cent lên 14,2-1/2 USD/bushel.
Sự suy yếu của đồng USD là sự điều chỉnh đối với hoạt động chốt lời. Trong bối cảnh Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) sắp công bố Báo cáo mùa vụ tháng Chín, do đó rất ít giao dịch diễn ra cho đến khi sản lượng vụ ngô và đậu tương Mỹ được xác định.
Giá chào bán lúa mì FOB của Nga đã giảm trong nhiều tuần. Xu hướng giảm giá này đã tăng nhanh trong tuần qua, trong đó lúa mỳ 11,5% protein được chào bán ở mức 289 USD/tấn. Tốc độ xuất khẩu lúa mỳ của Nga sẽ đạt 3,8 triệu tấn đến 4 triệu tấn trong tháng 9/2022, thấp hơn nhiều so với các năm trước.
Về tình hình thời tiết, dự báo khu vực miền Đông Trung Tây sẽ ẩm ướt hơn. Những trận mưa rào nhẹ sẽ đổ xuống khắp khu vực Trung Nam và Nam Trung Tây vào cuối tuần này. Nhiệt độ trên bình thường sẽ bao trùm toàn bộ miền Trung Mỹ trong 10 ngày tới.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 10/2022 trên sàn ICE tăng 0,16 US cent tương đương 0,9% lên 18,15 US cent/lb; đường trắng kỳ hạn tháng 10/2022 trên sàn London tăng 14,7 USD tương đương 2,6% lên 573,8 USD/tấn, trong đầu phiên giao dịch đạt 578,2 USD/tấn – cao nhất kể từ giữa tháng 7/2022.
Giá cà phê arabica trên sàn ICE giảm, rời xa so với mức cao nhất 6 tháng trong tuần trước đó.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 12/2022 trên sàn ICE giảm 3,7 US cent tương đương 1,6% xuống 2,288 USD/lb, giảm từ mức cao nhất 6 tháng (2,4295 USD/lb) trong tuần trước đó; cà phê robusta kỳ hạn tháng 11/2022 trên sàn London giảm 5 USD tương đương 0,2% xuống 2.223 USD/tấn.
Giá cao su tại Nhật Bản giảm phiên thứ 4 liên tiếp, do lo ngại nhu cầu tại nước tiêu thụ hàng đầu – Trung Quốc – chậm lại, trong bối cảnh các hạn chế Covid mới tại nhiều thành phố.
Giá cao su kỳ hạn tháng 2/2023 trên sàn Osaka giảm 2,2 JPY tương đương 1% xuống 216,6 JPY (1,54 USD)/kg, đóng cửa phiên chạm mức thấp nhất kể từ giữa tháng 10/2021. Tính chung cả tuần, giá cao su giảm hơn 4%; cao su kỳ hạn tháng 1/2023 trên sàn Thượng Hải giảm 170 CNY xuống 12.280 CNY (1.779 USD)/tấn.
Những tháng trước đó, chứng kiến lo ngại nhu cầu cao su tại nước mua hàng đầu – Trung Quốc – chậm lại, do nước này chịu khủng hoảng bất động sản, các đợt nắng nóng làm gián đoạn hoạt động sản xuất và các đợt đóng cửa kéo dài ảnh hưởng đến hoạt động công nghiệp và tiêu dùng.
Giá cao su kỳ hạn tháng 10/2022 trên sàn Singapore giảm 0,4% xuống 132,8 US cent/kg.

 

Giá hàng hóa thế giới

Hàng hóa

ĐVT

Giá 26/8

Giá 2/9

2/9 so với 1/9

2/9 so với 1/9 (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

93.06

86,87

+0,26

+0,30%

Dầu Brent

USD/thùng

100.99

93,02

+0,66

+0,71%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

76,040.00

72.640,00

-400,00

-0,55%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

9.30

8,79

-0,48

-5,14%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

285.13

246,36

+7,83

+3,28%

Dầu đốt

US cent/gallon

400.76

357,80

+1,68

+0,47%

Dầu khí

USD/tấn

1,194.00

1.091,25

+40,75

+3,88%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

83,000.00

83.000,00

0,00

0,00%

Vàng New York

USD/ounce

1,749.80

1.722,60

+13,30

+0,78%

Vàng TOCOM

JPY/g

7,667.00

7.680,00

+35,00

+0,46%

Bạc New York

USD/ounce

18.83

17,88

+0,22

+1,22%

Bạc TOCOM

JPY/g

82.20

79,60

+0,40

+0,51%

Bạch kim

USD/ounce

866.96

839,05

+8,30

+1,00%

Palađi

USD/ounce

2,108.87

2.024,00

+9,81

+0,49%

Đồng New York

US cent/lb

369.70

341,35

+0,70

+0,21%

Đồng LME

USD/tấn

8,160.50

7.633,00

+36,00

+0,47%

Nhôm LME

USD/tấn

2,493.50

2.295,50

+0,50

+0,02%

Kẽm LME

USD/tấn

3,565.50

3.135,50

-124,00

-3,80%

Thiếc LME

USD/tấn

24,750.00

21.155,00

+95,00

+0,45%

Ngô

US cent/bushel

664.25

665,75

+7,75

+1,18%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

805.25

811,00

+16,75

+2,11%

Lúa mạch

US cent/bushel

402.50

379,75

+2,75

+0,73%

Gạo thô

USD/cwt

17.67

17,67

-0,01

-0,06%

Đậu tương

US cent/bushel

1,461.25

1.420,50

+25,75

+1,85%

Khô đậu tương

USD/tấn

428.50

417,70

+2,40

+0,58%

Dầu đậu tương

US cent/lb

66.88

66,25

+2,66

+4,18%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

855.80

817,10

+5,10

+0,63%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2,413.00

2.416,00

+48,00

+2,03%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

238.10

228,80

-3,70

-1,59%

Đường thô

US cent/lb

18.47

18,15

+0,16

+0,89%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

163.70

173,50

-7,65

-4,22%

Bông

US cent/lb

117.68

103,21

-5,00

-4,62%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

495.00

476,40

+0,60

+0,13%

Cao su TOCOM

JPY/kg

141.20

132,10

0,00

0,00%

Ethanol CME

USD/gallon

2.16

2,16

0,00

0,00%

 

 

Nguồn: Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)