Dầu thô Brent kỳ hạn giao sau ở mức 91,35 USD/thùng, tăng 51 cent, trong khi dầu thô Mỹ (WTI) chốt ở mức 85,11 USD / thùng, tăng 1 cent.
Cả hai loại dầu đều giảm gần 2% trong tuần, bị ảnh hưởng một phần bởi đồng USD tăng mạnh, khiến dầu đắt hơn đối với những người mua sử dụng các loại tiền tệ khác.
Từ đầu quý III cho đến nay, cả dầu Brent và WTI đều giảm khoảng 20%, mức giảm tỷ lệ phần trăm hàng quý lớn nhất kể từ khi bắt đầu đại dịch COVID-19 vào năm 2020.
Công ty dầu Basra cho biết hoạt động xuất khẩu dầu từ kho dầu Basra của Iraq đang dần được nối lại sau khi chúng bị tạm dừng do sự cố tràn dầu đã được kiểm soát.
Sự cố tràn tại cảng, nơi có 4 giàn xếp hàng và có thể xuất khẩu tới 1,8 triệu thùng mỗi ngày, đã làm tăng giá do nguồn cung dầu thô toàn cầu giảm.
Cục Dự trữ Liên bang được cho là sẽ nâng lãi suất thêm 0,75 điểm phần trăm tại cuộc họp chính sách từ ngày 20-21/9.
Các nhà phân tích cho biết tâm lý thị trường bị ảnh hưởng bởi các bình luận của Bộ Năng lượng Mỹ cho rằng họ không có khả năng tìm cách bổ sung vào Dự trữ Dầu mỏ Chiến lược cho đến sau năm tài chính 2023.
Về mặt nguồn cung, thị trường đã tìm thấy một số hỗ trợ về việc khó có khả năng dầu thô Iran trở lại thị trường khi các quan chức phương Tây giảm triển vọng khôi phục thỏa thuận hạt nhân với Iran.
Giá dầu có thể cũng được hỗ trợ trong quý 4 nếu các thành viên OPEC+ cắt giảm sản lượng, điều này sẽ được thảo luận trong cuộc họp của nhóm vào tháng 10. Châu Âu đối mặt với khủng hoảng năng lượng do không chắc chắn về nguồn cung dầu và khí đốt từ Nga.
Nguồn cung dầu thô của Mỹ có xu hướng tăng, khi các công ty năng lượng trong tuần này bổ sung thêm các giàn khoan dầu và khí đốt tự nhiên lần đầu tiên sau ba tuần theo công ty dịch vụ năng lượng Baker Hughes Co BKR.N.
Theo số liệu sơ bộ của OPEC, nguồn cung dầu mỏ toàn cầu trong tháng 8/2022 tăng 1,3 triệu thùng/ngày so với tháng trước, đạt trung bình 101,3 triệu thùng/ngày.
Sản lượng dầu thô của 13 quốc gia OPEC trong tháng 8/2022 tăng 618 nghìn thùng/ngày so với tháng trước đó, đạt trung bình 29,65 triệu thùng/ngày. Sản lượng dầu thô tăng chủ yếu tại Libya và Saudi Arabia, trong khi sản lượng giảm tại Nigeria.
Nguồn cung của khu vực ngoài OPEC
Sản lượng dầu mỏ của khu vực ngoài OPEC trong năm 2021 (gồm NGL của OPEC) tăng 0,6 triệu thùng/ngày so với năm trước, đạt trung bình 63,6 triệu thùng/ngày. Sản lượng tăng từ Canada, Nga và Trung Quốc. Sản lượng giảm ở Anh, Brazil, Colombia và Indonesia.
Mỹ: Sản lượng dầu thô của Mỹ năm 2021 giảm 0,07 triệu thùng/ngày so với năm 2020, đạt mức trung bình 11,21 triệu thùng/ngày. Sản lượng khí tự nhiên hóa lỏng của Mỹ năm 2021 tăng 30 nghìn thùng/ngày lên mức trung bình 5,44 triệu
thùng/ngày. Trong năm 2022, sản lượng dầu thô dự báo trung bình khoảng 11,9 triệu thùng/ngày.
Nga: Sản lượng dầu mỏ của Nga trong tháng 7/2022 tăng 36 nghìn thùng/ngày so với tháng trước, đạt trung bình 11,1 triệu thùng/ngày (bao gồm 9,8 triệu thùng thùng/ngày sản lượng dầu thô và khí ngưng tụ và 1,2 triệu thùng/ngày khí NGL. Ước tính trong tháng 8/2022 sản lượng dầu thô và khí ngưng tụ giảm 71 nghìn thùng/ngày đạt 9,8 triệu thùng/ngày; khí NGL sẽ giảm 119 nghìn thùng/ngày. Trong năm 2022, sản lượng dầu mỏ dự báo sẽ tăng 80 nghìn thùng/ngày, đạt mức trung bình 10,9 triệu thùng/ngày.
Nga, nước chiếm khoảng 10% sản lượng dầu toàn cầu, đã và đang thiết lập quan hệ chặt chẽ hơn với nhiều nước châu Á và Trung Quốc - nước tiêu thụ năng lượng hàng đầu thế giới - nhằm đa dạng hóa điểm đến của năng lượng xuất khẩu, vượt ra khỏi các thị trường truyền thống ở châu Âu.
Na Uy: Sản lượng dầu mỏ của Na Uy trong tháng 7/2022 tăng 0,34 triệu thùng/ngày so với tháng trước, đạt 1,9 triệu thùng/ngày. Sản lượng dầu thô của Na Uy trong tháng 7/2022 tăng 317 nghìn thùng/ngày so với tháng trước, đạt 1,6 triệu thùng/ngày. Sản lượng NGL và khí ngưng tụ tăng 19 nghìn thùng/ngày trong tháng 7/2022 so với tháng trước, đạt 0,2 triệu thùng/ngày.
Trong năm 2022, sản lượng dẩu mỏ dự báo sẽ giảm 43 nghìn thùng/ngày đạt trung bình 2,0 triệu thùng/ngày, giảm 64 nghìn thùng/ngày so với báo cáo trước, điều chỉnh giảm chủ yếu là do sản lượng trong quý I và quý II/2022 giảm. Sản lượng dự kiến sẽ tiếp tục tăng trưởng vào quý IV/2022 khi khởi động các dự án nước ngoài mới như Nova, Hod, Njord Future, Bauge và Fenja-giai đoạn 1. Johan Sverdrup giai đoạn 2 dự kiến sẽ đi vào hoạt động vào cuối năm 2022.
Brazil: Sản lượng dầu thô của Brazil trong tháng 7/2022 tăng 111 nghìn thùng/ngày, đạt trung bình 2,9 triệu thùng/ngày.
Tổng sản lượng nhiên liệu lỏng của Brazil gồm cả nhiên liệu sinh học trong tháng 7/2022 tăng 113 nghìn thùng/ngày, đạt 3,6 triệu thùng/ngày.
Trong năm 2022, dự báo nguồn cung nhiên liệu của Brazil tăng 0,1 triệu thùng/ngày đạt trung bình 3,7 triệu thùng/ngày. Sản lượng dầu thô dự kiến sẽ tăng thông qua hai dự án khởi động mới.
Trung Quốc: Sản lượng dầu mỏ của Trung Quốc trong tháng 7/2022 giảm 151 nghìn thùng/ngày so với tháng trước đó, đạt trung bình 4,4 triệu thùng/ngày. Sản lượng dầu thô trong tháng 7/2022 giảm 146 nghìn thùng/ngày so với tháng trước, đạt 4,5 triệu thùng/ngày, tăng 4% so với cùng tháng năm 2021.
Các công ty Trung Quốc tăng đầu tư theo chiến lược đã hoạch định để nâng sản
lượng dầu. Trong năm 2021, sản lượng dầu mỏ tăng 0,2 triệu thùng/ngày so với năm 2020, đạt 4,35 triệu thùng/ngày. Trong năm 2022, dự báo sản lượng dầu mỏ đạt 4,5 triệu thùng/ngày, tăng 155 nghìn thùng/ngày so với năm 2021.
Canada: Sản lượng dầu mỏ của Canada trong tháng 7/2022 tăng 209 nghìn thùng/ngày so với tháng liền trước, đạt trung bình 5,6 triệu thùng/ngày.
Sản lượng dầu thô tổng hợp trong tháng 7/2022 đạt 1,17 triệu thùng/ngày, tăng 101 nghìn thùng/ngày so với tháng trước. Sau thời tiết băng giá, các nhà khai thác đã cố gắng tiếp tục hoạt động trở lại.
Giá khí đốt tự nhiên hóa lỏng tại Mỹ giảm 7%

Hợp đồng khí đốt tự nhiên của Hoa Kỳ giảm khoảng 7% xuống mức thấp nhất trong 5 tuần vào thứ Sáu (16/9), với sản lượng giữ gần kỷ lục hàng tháng và do giá khí đốt toàn cầu giảm.

Ngoài sản lượng tăng, giá khí đốt của Mỹ giảm còn do kỳ vọng nhu cầu sẽ giảm khi nhà máy khí đốt tự nhiên hóa lỏng Cove Point (LNG) ở Maryland đóng cửa để bảo trì vài tuần vào tháng 10.

Freeport, nhà máy xuất khẩu LNG lớn thứ hai của Mỹ, đã tiêu thụ khoảng 2 tỷ feet khối mỗi ngày (bcfd) khí trước khi đóng cửa vào ngày 8 tháng 6. Freeport LNG dự kiến nhà máy sẽ hoạt động trở lại ít nhất một phần vào đầu đến giữa tháng 11.

Hợp đồng khí đốt giao sau tháng NGc1 giảm 56,0 cent, xuống 7,764 USD/triệu đơn vị nhiệt Anh (mmBtu), mức đóng cửa thấp nhất kể từ ngày 8/8.

Từ đầu năm đến nay, giá khí đốt kỳ hạn tăng khoảng 109% do giá cao hơn ở châu Âu và châu Á khiến nhu cầu xuất khẩu LNG của Mỹ tăng mạnh.

Xuất khẩu khí đốt của Nga qua ba tuyến chính vào Đức - Nord Stream 1 (Nga-Đức), Yamal (Nga-Belarus-Ba Lan-Đức) và tuyến Nga-Ukraine-Slovakia-Cộng hòa Séc-Đức - chỉ đạt trung bình 1,3 bcfd vào tháng 9, giảm từ 2,5 bcfd vào tháng 8 và 10,8 bcfd vào tháng 9 năm 2021.

Nhà cung cấp dữ liệu Refinitiv cho biết sản lượng khí đốt trung bình ở 48 tiểu bang của Mỹ đã tăng lên 99,0 bcfd trong tháng 9 từ mức kỷ lục 98,0 bcfd vào tháng 8.

Với thời tiết mùa thu mát hơn, Refinitiv dự báo nhu cầu khí đốt trung bình của Mỹ, bao gồm cả xuất khẩu, sẽ giảm từ 93,1 bcfd trong tuần này xuống 92,5 bcfd trong hai tuần tới, tương tự như triển vọng hôm thứ Năm.

Lượng khí đến các nhà máy xuất khẩu LNG của Mỹ cho đến nay đã tăng lên 11,3 bcfd trong tháng 9 từ 11,0 bcfd trong tháng 8. Con số đó so với kỷ lục hàng tháng là 12,9 bcfd vào tháng Ba. Bảy nhà máy xuất khẩu lớn của Hoa Kỳ có thể biến khoảng 13,8 bcfd khí đốt thành LNG.

Nguồn: VITIC/Reuter