Trong số 33 nhóm hàng xuất khẩu chủ yếu sang thị trường Australia thì nhóm hàng điện thoại và linh kiện đứng đầu về kim ngạch với 582,49 triệu USD, chiếm 20% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa các loại sang Australia, tăng 7% so với cùng kỳ năm 2016; nhóm hàng máy vi tính và linh kiện đứng thứ 2 về kim ngạch, đạt 355,38 triệu USD, chiếm 12%, tăng 13%; tiếp đến nhóm hàng dầu thô 220,32 triệu USD, tăng 34%; giày dép 205,66 triệu USD, tăng 9%;
Trong 11 tháng đầu năm nay, hầu như các loại hàng hóa của Việt Nam xuất khẩu sang Australia đều tăng kim ngạch so với cùng kỳ năm ngoái; trong đó một số mặt hàng có mức tăng trưởng tốt như máy ảnh, máy quay phim và linh kiện tăng 283%; các sản phẩm từ sắt thép tăng 161%; phương tiện vận tải và phụ tùng tăng 86%; đồ chơi, dụng cụ thể thao và bộ phận tăng 58%; sản phẩm hóa chất tăng 51%; sản phẩm mây, tre, cói và thảm tăng 39%.
Đối với nhóm hàng thủy sản đang rất có tiềm năng xuất sang Australia vì hàng năm Australia tiêu thụ khoảng 1 triệu tấn hải sản. Tuy nhiên, sản xuất trong nước của Australia mới chỉ đáp ứng được 30% nhu cầu, phải nhập khẩu 70% từ nước ngoài, gồm các loại như cá hộp, phi lê cá, tôm, mực, bạch tuộc… Xu hướng nhập khẩu ngày càng tăng theo quy mô dân số và thị hiếu tiêu dùng hải sản.
Hiện nay, Việt Nam là nhà cung cấp thuỷ sản lớn thứ tư của Australia sau Thái Lan, New Zealand và Trung Quốc nhưng chỉ chiếm khoảng 11% thị phần. Riêng với mặt hàng tôm, Việt Nam là nguồn cung lớn nhất cho Australia với kim ngạch chiếm khoảng trên 35% thị phần.
Thương vụ Việt Nam tại Australia cũng khuyến cáo, Australia là thị trường xuất khẩu thủy sản tiềm năng của Việt Nam. Vấn đề hiện nay là các quy định nghiêm ngặt của Australia về vệ sinh an toàn thực phẩm và an toàn sinh học. Hàng thuỷ sản của Việt Nam vẫn còn vài trường hợp dư lượng kháng sinh và dư lượng thuốc diệt nấm bị phát hiện và điều này ảnh hưởng đến uy tín của hàng Việt Nam nếu không loại trừ triệt để.
Xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang Australia 11 tháng đầu năm 2017
ĐVT: USD
Mặt hàng
|
11T/2016
|
11T/2017
|
% so sánh
|
Tổng kim ngạch XK
|
2.612.297.180
|
2.961.355.213
|
13
|
Điện thoại các loại và linh kiện
|
545.374.049
|
582.490.726
|
7
|
Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện
|
314.906.936
|
355.375.794
|
13
|
Dầu thô
|
164.904.566
|
220.316.915
|
34
|
Giày dép các loại
|
188.408.519
|
205.662.209
|
9
|
Hàng thủy sản
|
167.552.678
|
164.824.794
|
-2
|
Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác
|
137.361.898
|
158.018.005
|
15
|
Hàng dệt, may
|
153.876.160
|
154.691.132
|
1
|
Gỗ và sản phẩm gỗ
|
153.105.402
|
153.651.605
|
0
|
Hạt điều
|
111.548.888
|
121.759.276
|
9
|
Phương tiện vận tải và phụ tùng
|
50.151.037
|
93.239.651
|
86
|
Sản phẩm từ sắt thép
|
30.411.273
|
79.363.553
|
161
|
Sắt thép các loại
|
50.151.037
|
52.100.297
|
4
|
Sản phẩm từ chất dẻo
|
37.842.579
|
43.993.339
|
16
|
Túi xách, ví, vali, mũ, ô, dù
|
37.356.647
|
41.451.916
|
11
|
Sản phẩm nội thất từ chất liệu khác gỗ
|
28.831.704
|
36.880.956
|
28
|
Kim loại thường khác và sản phẩm
|
58.823.514
|
36.788.231
|
-37
|
Giấy và các sản phẩm từ giấy
|
24.196.055
|
29.629.835
|
22
|
Đồ chơi, dụng cụ thể thao và bộ phận
|
18.289.082
|
28.834.176
|
58
|
Cà phê
|
27.949.263
|
27.551.038
|
-1
|
Hàng rau quả
|
23.873.386
|
26.853.763
|
12
|
Sản phẩm hóa chất
|
12.928.232
|
19.461.254
|
51
|
Bánh kẹo và các sản phẩm từ ngũ cốc
|
13.733.565
|
16.005.109
|
17
|
Nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày
|
13.376.818
|
13.542.689
|
1
|
Đá quý, kim loại quý và sản phẩm
|
15.086.395
|
12.942.407
|
-14
|
Clanhke và xi măng
|
14.947.498
|
12.431.102
|
-17
|
Hạt tiêu
|
18.135.685
|
12.272.847
|
-32
|
Sản phẩm gốm, sứ
|
10.241.825
|
11.703.937
|
14
|
Sản phẩm từ cao su
|
9.608.594
|
11.189.555
|
16
|
Sản phẩm mây, tre, cói và thảm
|
7.055.683
|
9.825.743
|
39
|
Gạo
|
5.741.599
|
5.607.652
|
-2
|
Chất dẻo nguyên liệu
|
4.495.829
|
4.458.639
|
-1
|
Dây điện và dây cáp điện
|
3.338.565
|
3.807.601
|
14
|
Máy ảnh, máy quay phim và linh kiện
|
651.424
|
2.492.507
|
283
|
(Vinanet tính toán từ số liệu của TCHQ)