Vấn đề giá cả được coi trọng hàng đầu
Chia sẻ tại hội thảo “Thúc đẩy xuất khẩu sang thị trường Nam Á – hướng dẫn tiếp cận thị trường Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh, Sri Lanka” diễn ra chiều 26/6, bà Lê Thị Mai Anh, Trưởng phòng Đông Nam Á, Nam Á và Hợp tác khu vực, Vụ Phát triển thị trường nước ngoài (Bộ Công Thương) nhấn mạnh, Nam Á là thị trường đông dân thứ hai thế giới, chiếm 24% dân số toàn cầu.
Dự kiến đến năm 2030, tầng lớp trung lưu tại khu vực này sẽ cán mốc 700 triệu người đang mở ra triển vọng xuất khẩu cho doanh nghiệp Việt Nam.
Nam Á không chỉ gần về mặt địa lý, thuận tiện cho vận chuyển đường biển từ Việt Nam qua các cảng lớn như Mumbai (Ấn Độ), Karachi (Pakistan) hay Chittagong (Bangladesh), mà còn là cửa ngõ kết nối Đông Nam Á với Trung Đông và châu Phi.
Tăng trưởng kinh tế của khu vực luôn duy trì ổn định ở mức 4–6% trong những năm qua, và dù dự báo có điều chỉnh nhẹ xuống 5,8% vào năm 2025, Nam Á vẫn là khu vực phát triển năng động, có nhu cầu nhập khẩu cao, đặc biệt trong bối cảnh các quốc gia này đang chuyển dịch từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ.
Tuy nhiên, theo bà Mai Anh, thị trường này nhạy cảm với giá cả. Đại đa số người tiêu dùng ở đó nhìn vào giá bán khi quyết định mua hàng và không yêu cầu chất lượng sản phẩm rất cao như thị trường Mỹ hay EU.
Bên cạnh đó, người tiêu thích hàng hóa chia nhỏ theo gói, thích hàng khuyến mại và ngày càng quan tâm đến yếu tố sức khỏe, chứng nhận chất lượng, yếu tố văn hóa – tôn giáo.
Ngoài ra, theo PGS.TS Trịnh Thị Thu Hương, Phó Viện trưởng Viện Kinh tế và Kinh doanh quốc tế, Phó Chủ tịch hiệp hội phát triển nhân lực Logistics Việt Nam, thị trường Nam Á có nhu cầu nhập khẩu cao với nhiều nhóm sản phẩm Việt Nam có thế mạnh như nông sản, thực phẩm chế biến, dệt may, đồ điện tử, thiết bị thông minh, sản phẩm chăm sóc sức khỏe…
Đặc biệt, chất lượng hàng hóa Việt Nam được đánh giá là phù hợp với nhu cầu phổ thông của khu vực, không yêu cầu quá cao như thị trường châu Âu, cũng không tập trung vào hàng xa xỉ như thị trường cao cấp.
Việc các nước Nam Á đang tìm kiếm sự đa dạng hóa nguồn cung, giảm phụ thuộc vào Trung Quốc, đồng thời ngày càng cởi mở hơn trong các hiệp định song phương và khu vực như AITIGA (Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN – Ấn Độ), càng tạo điều kiện thuận lợi cho hàng Việt tiến sâu hơn vào khu vực này.
Những rào cản không thể xem nhẹ
Tuy vậy, thị trường Nam Á cũng đặt ra nhiều thách thức đáng kể. Cạnh tranh khốc liệt từ các quốc gia cung ứng hàng giá rẻ, đặc biệt là Trung Quốc và một số nước châu Á khác, khiến doanh nghiệp Việt cần có chiến lược định giá hợp lý và tăng cường giá trị gia tăng cho sản phẩm.
Về logistics, hạ tầng cảng biển và hàng không của khu vực còn nhiều hạn chế. PGS. TS Trịnh Thị Thu Hương lưu ý: tại Bangladesh, cảng Chittagong và Mongla thường xuyên quá tải; Pakistan có thủ tục hải quan phức tạp và bất ổn chính trị có thể ảnh hưởng đến tiến độ giao hàng. Ấn Độ dù có cảng hiện đại như Nhava Sheva và Chennai nhưng cũng gặp tình trạng tắc nghẽn vào mùa cao điểm. Ngoài ra, thủ tục nhập khẩu, giấy chứng nhận Halal, yêu cầu giấy phép, hay các loại phụ phí cũng là những “nút thắt” mà doanh nghiệp Việt phải nắm rõ.
Mặt khác, để hiện thực hóa cơ hội tại Nam Á, bà Hương đưa ra nhiều khuyến nghị cho doanh nghiệp đó là cần nghiên cứu thị trường kỹ lưỡng, đặc biệt hành vi tiêu dùng tầng lớp trung lưu. Khai mã HS đúng ngay từ đầu, chuẩn hóa chứng từ điện tử gửi sớm từ 5–7 ngày trước ETA.
Làm việc với các công ty logistics có đại lý tại địa phương, in và niêm phong bộ chứng từ đầy đủ; giao hàng nguyên container (FCL) để giảm rủi ro bị kiểm hàng. Sử dụng phương thức thanh toán an toàn như LC, tránh chuyển khoản 100% ngay từ đầu với đối tác mới. Tránh gửi hàng sát các kỳ lễ địa phương, kiểm tra kỹ nhãn mác và có thể yêu cầu kiểm hàng tại kho riêng thay vì cảng nếu có rủi ro.
Ngoài ra, doanh nghiệp cần tận dụng các hỗ trợ từ cơ quan chức năng, tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại, quảng bá thương hiệu thông qua triển lãm, hội chợ, nền tảng số và hợp tác thương mại điện tử.