Điều này chứng tỏ sự phục hồi khá sớm so với dự báo phải hết năm 2021 mới quay lại ngưỡng năm 2019, thậm chí đến quý 3/2022.
Đánh giá về kết quả này, ông Lê Tiến Trường, Chủ tịch HĐQT Vinatex phân tích, 6 tháng đầu năm 2021 ghi nhận những phục hồi tích cực của tổng cầu trên thị trường thế giới. Cầu tăng đã làm cho lưu lượng giao dịch hàng hoá dệt may tăng cao, đem lại nguồn đơn hàng dài, số lượng lớn cho phần lớn doanh nghiệp sau 1 năm thiếu hụt nặng nề.

Trái dự báo, xuất khẩu dệt may phục hồi nhanh

Sự phục hồi của xuất khẩu dệt may ngoài yếu tố cầu, còn có cả yếu tố dịch chuyển cung. Nhóm các nước xuất khẩu dệt may lớn như Ấn Độ, Bangladesh, Cambodia bị dịch bệnh hoành hành trên quy mô lớn, doanh nghiệp không thể hoạt động. Trong khi đó ở Việt Nam đến hết tháng 4/2021, tình hình kiểm soát dịch bệnh khá tốt, doanh nghiệp có thể phát huy hết tốc lực cho sản xuất.
Đáng chú ý, bên cạnh ngành may có đủ đơn hàng dù đơn giá còn thấp thì điểm sáng đặc biệt đến từ ngành sợi. Sau 24 tháng liên tục khó khăn, cầu thấp, nhiều thời điểm giá bán dưới giá thành thì từ tháng 10/2020, tình hình ngành này đã sáng lên, cầu và cả giá bán tăng cao.
“Với Vinatex, ước tính hiệu quả của 6 tháng đầu năm 2021 về cơ bản có thể bù đắp được toàn bộ phần thiệt hại của 2 năm 2019, 2020; đưa ngành sợi trở lại thành ngành có đóng góp trên 60% hiệu quả hợp nhất toàn Tập đoàn, dù chỉ ở 12 đơn vị với quy mô xấp xỉ 7.000 lao động, chiếm dưới 10% lao động trực tiếp của Tập đoàn và dưới 5% nếu tính đến cả các đơn vị may cấp 2”, ông Lê Tiến Trường nói.
Bên cạnh những kết quả đạt được, lãnh đạo Vinatex cũng chỉ ra không ít hạn chế, tồn tại. Đó là kết quả đạt được phần lớn do sự phục hồi sớm của thị trường và sự thiếu hụt nguồn cung từ các quốc gia cạnh tranh, dẫn tới Việt Nam có được lợi thế trong ngắn hạn về nguồn hàng, là điểm đến an toàn gần như duy nhất trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
Bên cạnh đó, mô hình kinh doanh của các doanh nghiệp sau 1 năm dịch bệnh đã có sự linh hoạt cao hơn, chủ động hơn nhưng vẫn phần lớn vẫn gói gọn trong mô thức cũ, khách hàng cũ, phương thức tiếp cận chưa có đổi mới căn bản.
Một số chuyên gia kinh tế phân tích, với Việt Nam, sau năm 2020 xuất siêu kỷ lục trên 19 tỷ USD, 6 tháng đầu năm nay đã ghi nhận nhập siêu xấp xỉ 1,5 tỷ USD. Tuy dự trữ ngoại tệ cao kỷ lục, nhưng áp lực duy trì tỷ giá sẽ bị “giằng xé” bởi cả yếu tố cán cân thương mại và việc đảm bảo quản lý rủi ro Mỹ đưa Việt Nam trở lại danh sách thao túng tiền tệ.
“Tỷ giá neo ổn định cũng là bất lợi đối với các ngành xuất khẩu như dệt may trong khi các quốc gia như Ấn Độ, Bangladesh… đều có điều chỉnh nội tệ giảm so với USD”, ông Lê Tiến Trường nói.
Riêng với dệt may, thị trường Mỹ vẫn đang là thị trường quan trọng nhất của ngành may, với tốc độ tăng trưởng gần 30% trong 6 tháng đầu năm, ghi nhận mức tăng cao nhất sau 14 năm qua kể từ khi Việt Nam trở thành thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Tuy nhiên, theo ông Lê Tiến Trường chính điều đó lại tiềm ẩn rủi ro trong chính sách của Mỹ với Việt Nam.
Với Trung Quốc, 6 tháng qua thị trường này đã vươn lên nằm trong “top 3” các nước nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam mà chủ yếu là của ngành sợi. Sự nhạy cảm trong chính sách và nhu cầu của Trung Quốc với ngành sợi Việt Nam đã trở nên rất cao, mang tính ảnh hưởng trọng yếu đến hiệu quả của ngành.
Liên quan tới câu chuyện xuất khẩu dệt may thời gian tới, đại diện Bộ Công Thương cho rằng, các mặt hàng may mặc trong 6 tháng cuối năm là hàng thu đông và sẽ có giá trị cao hơn.
Do đó, dự báo xuất khẩu dệt may năm nay có thể tăng khoảng 10% so với năm 2020, tương đương 39 tỷ USD và dệt may Việt Nam có thể quay lại mức xuất khẩu của năm 2019, sớm hơn khoảng 1 năm so với dự báo trước đây.
 

Nguồn: haiquanonline.com.vn