Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm do đàm phán thương mại Mỹ - Trung có thể vẫn chưa thể sớm đi đến một thỏa thuận như mong đợi.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu Brent Biển Bắc giảm 33 US cent xuống 62,18 USD/thùng, dầu ngọt nhẹ Mỹ giảm 38 US cent xuống 56,86 USD/thùng.
Giới đầu tư lo ngại cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung kéo dài đã16 tháng sẽ chưa sớm kết thúc, qua đó nhu cầu hàng hóa sẽ tiếp tục chậm lại.
Tổng thống Mỹ Donald Trump mới đây cho biết các cuộc đàm phán với Trung Quốc đang diễn ra "tốt đẹp", nhưng Washington sẽ chỉ đi đến thỏa thuận nếu “có lợi" cho nước Mỹ. Vị tổng thống này cũng bác bỏ thông tin trước đó về việc Washington đã sẵn sàng dỡ bỏ thuế.
Giá sản xuất của Trung Quốc tháng 10/2019 đã giảm mạnh nhất trong hơn ba năm qua; doanh số ô tô cũng giảm tháng thứ 16 liên tiếp.
Trong khi đó, giới đầu tư vẫn lo ngại về nguồn cung dầu dư thừa. Một nguồn thạo tin cho hay Saudi Arabia đã nâng sản lượng trong tháng 10/2019 lên 10,3 triệu thùng/ngày, nhưng vẫn giữ mức cung cho thị trường dưới mức mục tiêu sản lượng đã cam kết với Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC).
Tuy nhiên, đà giảm của giá dầu được ngăn cản bởi tồn trữ dầu mỏ tại trung tâm giao nhận Cushing của Mỹ đã giảm khoảng 1,2 triệu thùng trong tuần kết thúc vào ngày 8/11.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm xuống mức thấp nhất trong vòng hơn 3 tháng khi chứng khoán Mỹ gần đạt mức cao kỷ lục. Vàng giao ngay giảm 0,1% xuống 1.456,98 USD/ounce vào cuối phiên, sau khi có thời điểm trong buổi sáng cùng ngày chạm mức thấp nhất kể từ ngày 5/8; vàng kỳ hạn tháng 12/2019 giảm 0,4% xuống 1.457,10 USD/ounce.
Tai Wong, chuyên gia cấp cao của công ty BMO, nhận định tâm lý thị trường nhìn chung đang tích cực hơn. Phiên này, chứng khoán Mỹ bứt phá khỏi các mức thấp và giao dịch gần các mức cao kỷ lục ghi nhận trong tuần trước.
Nhưng giới đầu tư vẫn thận trọng đối với tình hình đàm phán thương mại Mỹ-Trung sau khi Tổng thống Mỹ Donald Trump cho biết Mỹ muốn có một "thỏa thuận thích hợp". Vị tổng thống này đã bác bỏ thông tin trước đó về việc Washington sẵn sàng dỡ bỏ thuế.
Giá vàng đã giảm 3,6% trong tuần trước, mức giảm lớn nhất trong ba năm qua, trước sự khởi sắc của thị trường chứng khoán và tâm lý lạc quan xung quanh thỏa thuận thương mại Mỹ-Trung.
Về những kim loại quý khác, giá bạch kim giảm 1% xuống còn 877,43 USD/ounce, palađi giảm 3,2% xuống 1.686,93 USD/ounce trong khi giá bạc tăng 0,3% lên 16,84 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá hầu hết giảm, ngoại trừ kẽm, do số liệu kinh tế yếu kém của Trung Quốc gây lo ngại triển vọng nhu cầu kim loại sẽ thấp, giữa lúc cuộc chiến thương mại chưa thấy hồi kết.
Trên sàn kim loại London (LME), đối với hợp đồng kỳ hạn giao sau 3 tháng, giá đồng giảm 0,8% xuống 5.878 USD/tấn, nhôm giao cùng kỳ hạn giảm 1,6% xuống 1.779 USD/tấn, chì giảm 0,8% xuống 2.090 USD/tấn và thiếc giảm 0,8% xuống 16.575 USD/tấn.
Nickel giảm mạnh xuống mức thấp nhất kể từ tháng 8 tới nay, có lúc chỉ đạt 15.500 USD/tấn, và đã mất 15% kể từ đầu tháng 9. Kết thúc phiên vừa qua, nickel giảm 3,9% xuống 15.565 USD/tấn. Nguyên nhân bởi Indonesia – nước xuất khẩu nickel hàng đầu thế giới – thông báo cho phép 9 công ty được xuất khẩu nickel trở lại. Tuy nhiên, lượng nickel lưu tại các kho bãi của sàn LME hiện vẫn đang thấp nhất trong lịch sử - chỉ khoảng 65.000 tấn.
Chỉ riêng kẽm tăng 0,6% lên 2.496,5 USD/tấn.
Chỉ số giá sản xuất của Trung Quốc – thước đo lợi nhuận của các doanh nghiệp nước này – tháng 10/2019 giảm 1,6% so với cùng kỳ năm trước, mức giảm này nhiều nhất kể từ tháng 7/2016. Các khoản cho vay mới của các ngân hàng Trung Quốc cùng tháng giảm nhiều hơn dự kiến, xuống mức thấp nhất 22 tháng.
Giá quặng sắt tại Trung Quốc giảm tiếp xuống mức thấp nhất 2,5 tháng, là phiên thứ 4 liên tiếp đi xuống, do nhu cầu chậm lại giữa bối cảnh lĩnh vực sản xuất yếu đi và các nhà máy giảm nhu cầu mua dự trữ.
Trên sàn Đại Liên, quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2020 giảm 2,4% xuống 592 CNY (84,64 USD)/tấn, thấp nhất kể từ 29/8. Lúc đầu phiên, hợp đồng này có lúc giảm 3,1%.
Giá sản xuất của Trung Quốc tháng 10/2019 giảm nhiều nhất trong vòng hơn 3 năm do nhu cầu trong lĩnh vực chế tạo chậm lại và ảnh hưởng tiếp diễn từ cuộc chiến thương mại với Mỹ.
Thép cây trên sàn Thượng Hải giảm 1,1% xuống 3.373 CNY/tấn, thép cuộn cán nóng kỳ hạn tháng 1/2020 giảm 1% xuống 3.321 CNY/tấn, thép không gỉ giảm 4,3% xuoongs 14.210 CNY/tấn.
Tồn trữ thép tại nước này tính đến 7/11 ở mức 8,9 triệu tấn, thấp nhất kể từ 11/1/2019, theo số liệu của MySteel. Các nhà máy thép Trung Quốc đang cố gắng giải phóng hết lượng thép tồn đọng trong kho trước khi kết thúc năm.
Trên thị trường nông sản, giá đường vững trong phiên vừa qua bởi dự báo nguồn cung sẽ khan hiếm, nhưng lại có thông tin khu vực Trung – Nam Brazil sản xuất đường nhiều hơn so với cùng thời điểm này năm ngoái.
Kết thúc phiên, đường thô kỳ hạn tháng 3/2019 vững ở 12,57 US cent/lb, đường trắng kỳ hạn tháng 12/2019 giảm nhẹ 0,6% xuống 332,9 USD/tấn.
Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) hôm 8/11 dự báo sản lượng đường của nước này niên vụ 2019/20 có thể đạt 8,612 triệu tấn thiếu (tương đương 7,81 triệu tấn), so với 9,18 tấn thiếu dự báo hồi tháng trước.
Cà phê giảm, theo đó arabica kỳ hạn tháng 12/2019 giảm 3,45 US cent (0,7%) xuống 1,06 USD/lb; robusta kỳ hạn tháng 1/2020 giảm 0,7% (9 USD) xuống 1,375 USD/tấn.
Giá đậu tương trên sàn Chicago giảm xuống mức thấp nhất 1 tháng cũng do lo ngại Mỹ và Trung Quốc chưa thể sớm ký kết thỏa thuận thương mại. Kết thúc phiên, giá đã giảm 14 US cent xuống 9,17 USD/bushel. Ngô và lúa mì có chung xu hướng khi ngô giảm 4 US cent xuống 3,73-1/4 USD/bushel, còn lúa mì giảm 4-1/2 US cent xuống 5,05-3/4 USD/bushel.
Giá cao su trên sàn Tokyo (TOCOM) kết thúc phiên vừa qua tăng mặc dù giá ở Thượng Hải giảm. Hợp đồng kỳ hạn tháng 4/2020 trên sàn TOCOM tăng 1,2 JPY (0,01%) lên 178,5 JPY/kg; hợp đồng kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn Thượng Hải giảm 110 CNY (15,7 USD) xuống 11.935 CNY/tấn.
Thị trường lại dấy lên nghi ngờ về triển vọng thỏa thuận thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc, giữa bối cảnh lo ngại nguồn cung dư thừa sẽ gây áp lực lên giá cao su, mặc dù ở các nước sản xuất chủ chốt đang có dịch bệnh trên cây cao su.
Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

56,86

-0,38

-0,66%

Dầu Brent

USD/thùng

62,18

-0,33

-0,34%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

38.510,00

+200,00

+0,52%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,64

-0,15

-5,45%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

160,99

-2,38

-1,46%

Dầu đốt

US cent/gallon

191,42

-0,39

-0,20%

Dầu khí

USD/tấn

581,50

+5,00

+0,87%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

55.550,00

+140,00

+0,25%

Vàng New York

USD/ounce

1.457,10

-5,80

-0,40%

Vàng TOCOM

JPY/g

5.095,00

-19,00

-0,37%

Bạc New York

USD/ounce

16,80

-0,02

-0,12%

Bạc TOCOM

JPY/g

59,00

-0,10

-0,17%

Bạch kim

USD/ounce

875,96

-0,06

-0,01%

Palađi

USD/ounce

1.688,63

+0,10

+0,01%

Đồng New York

US cent/lb

266,40

-1,80

-0,67%

Đồng LME

USD/tấn

5.924,00

-50,00

-0,84%

Nhôm LME

USD/tấn

1.807,50

-5,50

-0,30%

Kẽm LME

USD/tấn

2.482,00

-3,00

-0,12%

Thiếc LME

USD/tấn

16.700,00

+125,00

+0,75%

Ngô

US cent/bushel

373,25

-4,00

-1,06%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

505,75

-4,50

-0,88%

Lúa mạch

US cent/bushel

312,25

+8,00

+2,63%

Gạo thô

USD/cwt

12,02

-0,02

-0,21%

Đậu tương

US cent/bushel

917,00

-14,00

-1,50%

Khô đậu tương

USD/tấn

300,60

-4,30

-1,41%

Dầu đậu tương

US cent/lb

31,42

-0,08

-0,25%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

463,30

+2,10

+0,46%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.514,00

+16,00

+0,64%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

109,45

-3,40

-3,01%

Đường thô

US cent/lb

12,57

0,00

0,00%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

98,10

-2,20

-2,19%

Bông

US cent/lb

66,08

-0,49

-0,74%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

391,70

-1,30

-0,33%

Cao su TOCOM

JPY/kg

178,10

-0,40

-0,22%

Ethanol CME

USD/gallon

1,45

+0,03

+1,90%

Nguồn: VITIC/ Reuters, Bloomberg