Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm sau số liệu cho thấy lượng dầu dự trữ tại các kho của Mỹ bất ngờ tăng, làm dấy lên những lo ngại về nhu cầu năng lượng, bất chấp việc những hy vọng về gói kích thích kinh tế mới của Mỹ đã "tiếp sức" cho thị trường.
Khép phiên này, dầu Brent tăng 2 US cent lên 56,1 USD/thùng; dầu Tây Texax Mỹ (WTI) giảm 18 US cent xuống 53,13 USD/thùng.
Cuối ngày 20/1, số liệu từ Viện Dầu mỏ Mỹ cho thấy dự trữ dầu thô của nước này đã tăng 2,6 triệu thùng trong tuần trước, trái ngược so với dự báo giảm 1,2 triệu thùng mà các nhà phân tích của Reuters đưa ra. Số liệu chính thức về dự trữ dầu bị lùi ngày công bố hai ngày đến 22/1 do ngày lễ Luther King Jr. và lễ nhậm chức Tổng thống.
Ngoài ra, mức độ tuân thủ thoả thuận cắt giảm sản lượng của các nước trong và ngoài Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) trong tháng 12/2020 đã giảm so với tháng 11/2020. Reuters dẫn hai nguồn tin cho hay mức độ tuân thủ đã đạt 99% trong tháng 12/2020
Bên cạnh đó, số ca mắc Covid-19 gia tăng tại Trung Quốc, nước nhập khẩu dầu thô lớn nhất thế giới, đã gây sức ép lên giá dầu. Bắc Kinh có kế hoạch áp đặt các yêu cầu xét nghiệm virus gây dịch Covid-19 nghiêm ngặt trong dịp Tết Nguyên đán, khi hàng chục triệu người có kế hoạch sẽ đi du lịch.
Về dài hạn, những quyết sách của chính quyền Tổng thống Biden có thể khiến giá dầu sụt giảm. Trong số những hành động đầu tiên của mình trên cương vị Tổng thống, ông Joe Biden đã tuyên bố đưa Mỹ quay trở lại Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu và thu hồi giấy phép đối với dự án đường ống dẫn dầu Keystone XL từ Canada. Chính quyền của ông cũng cam kết chấm dứt việc cho thuê các giếng dầu khí mới trên các vùng đất của liên bang.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm khỏi mức cao nhất 2 tuần, giữa bối cảnh các nhà đầu tư thúc đẩy hoạt động bán ra chốt lời.
Cuối phiên giao dịch, giá vàng giao ngay giảm 0,2% xuống 1.867,56 USD/ounce,sau khi có lúc đạt mức cao nhất kể từ 8/1 là 1.874,86 USD/ounce; vàng kỳ hạn tháng 2/2021 vững ở 1.865,90 USD/ounce. Giá bạc phiên này cũng tăng 0,1% lên 25,83 USD/ounce, bạch kim tăng 1% lên 1.120,7 USD/ounce, trong khi palađi giảm 0,2% xuống 2.366,45 USD/ounce.
David Meger, nhà quản lý cấp cao tại High Ridge Futures, nhận định các nhà giao dịch đã tiến hành bán ra chốt lời, sau đà tăng gần đây của giá vàng, nhờ những hy vọng về các biện pháp kích thích kinh tế từ chính quyền Tổng thống Mỹ, Joe Biden. Vàng được xem là tài sản đảm bảo an toàn vốn cho nhà đầu tư mỗi khi lạm phát cao và tiền USD mất giá – những điều có thể xảy ra khi ông Joe Biden nỗ lực tăng cường kích thích nền kinh tế Mỹ.
Ngày 21/1, tân Tổng thống Mỹ Joe Biden đã công bố chiến lược chống dịch viêm đường hô hấp cấp Covid-19 chi tiết, trong đó ưu tiên thúc đẩy việc tiêm chủng, xét nghiệm và tập trung vào khía cạnh khoa học. Chính quyền mới cũng đang kỳ vọng Quốc hội thông qua gói cứu trợ Covid-19 trị giá 1.900 tỷ USD, trong đó có 20 tỷ USD để mua vaccine và 50 tỷ USD dành cho xét nghiệm.
Nhà phân tích Rhona O'Connell tại StoneX nhận định thị trường vẫn đang chờ xem liệu gói kích thích mới có được Quốc hội Mỹ nhanh chóng thông qua như kỳ vọng của ông Biden hay không và đây có thể là một trong những lý do khiến vàng chưa bứt phá mạnh mẽ.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm do nhận định nhu cầu ở Trung Quốc – nước tiêu thụ đồng lớn nhất thế giới – có thể đã đạt đỉnh. Tuy nhiên, mức giảm giá được hạn chế bởi USD yếu đi và lượng đồng lưu kho trên sàn London giảm.
Kết thúc phiên này, giá đồng giao sua 3 tháng trên sàn London giảm 0,2% xuống 8.028 USD/tấn.
Lượng đồng lưu trữ trên sàn London đã giảm gần một nửa kể từ tháng 10 năm ngoái, hiện là 91.150 tấn, thấp nhất kể từ tháng 9/2020.
Giá quặng sắt tại Trung Quốc tăng trong phiên vừa qua giữa bối cảnh Australia – nhà cung cấp quặng sắt chính cho thị trường này – đang chuẩn bị ứng phó với một cơn bão nhiệt đới lớn. Tuy nhiên, giá chỉ tăng vừa phải do lo ngại số ca nhiễm virus Covid-19 ở Trung Quốc tăng, và biên lợi nhuận của ngành thép Trung Quốc thấp.
Quặng sắt kỳ hạn tháng 5/2021 – giao dịch nhiều nhất – trên sàn Đại Liên phiên vừa qua tăng 0,9% lên 1.061 CNY (164,24 USD)/tấn; quặng sắt kỳ hạn tháng 2/2021 trên sàn Singapore cũng tăng 0,9% lên 167,43 USD/tấn.
Cảng Hedland của Australia - trung tâm vận chuyển quặng sắt lớn nhất thế giới – đang cột giữ các tàu lớn neo đậu tại đây, sau khi cơ quan dự báo thời tiết cho biết sẽ có một cơn lốc xoáy cấp 1 hoặc 2 có thể đổ bộ vào bờ biển Pilbara trong ngày 22/1.
Daniel Hynes, chiến lược gia hàng hóa cấp cao của ANZ cho biết: “Thị trường lo ngại về sự bùng phát số ca nhiễm virus Covid-19 ở Trung Quốc vì điều đó có thể ảnh hưởng đến các cơ sở sản xuất thép” trong trường hợp các biện pháp phong tỏa được áp dụng. Theo ông Hynes, mặc dù bão lớn ở Australia có thể ảnh hưởng đến chuỗi cung, song nhu cầu giảm trước Tết Nguyên đán sẽ tác động tiêu cực lên giá quặng sắt, nguy cơ đẩy giá xuống 156 USD/tấn vào cuối quý này”, từ mức 171,5 USD/tấn hiện nay.
Trên thị trường nông sản, giá đậu tương kết thúc phiên giao dịch vừa qua tăng nhẹ sau chuỗi 3 phiên giảm trước đó. Cụ thể, hợp đồng đậu tương tham chiếu trên sàn Chicago tăng 3/4% lên 13,70-1/4 USD/bushel. Đầu phiên, có lúc giá tăng 18 US cent do Bộ Nông nghiệp Mỹ thông báo tư nhân Mỹ đã bán 136.000 tấn đậu tương Mỹ sang Trung Quốc và 163.290 tấn sang Mexico, kỳ hạn cùng giao trong niên vụ 2020/21.
Sau khi giá tăng mạnh vào đầu phiên bởi thông tin đó thì giá đã quay đầu đi xuống ở cuối phiên do thông tin Nam Mỹ đã có mưa, làm giảm bớt lo ngại về nguồn cung.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2021 giảm 0,22 US cent (1,3%) trong phiên vừa qua, xuống 16,05 US cent/lb; đường trắng giao cùng kỳ hạn cũng giảm 5,70 USD xuống 450,30 USD/tấn.
Giới kinh doanh đường cho rằng xu hướng tăng giá gần đây đã đảo chiều, khi mà Ấn Độ đang tìm cách tăng cường xuất khẩu đường ra thế giới giữa bối cảnh lượng tồn trữ đang tăng.
Một số thông tin cho thấy, Ấn Độ đã ký các hợp đồng xuất khẩu với khối lượng lên tới tổng cộng 2 triệu tấn.
Tuy nhiên, Czarnikow hôm 21/1 dự báo sản lượng đường của Brazil niên vụ 2021/22 sẽ giảm 6% xuống 36 triệu tấn.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 3/2021 tăng 1,25 US cent (1%) lên 1,2645 USD/lb, đảo chiều sau 2 phiên giảm liên tiếp trước đó. Sản lượng cà phê của Brazil được dự báo là sẽ giảm mạnh tới 30,5% trong năm nay, xuống còn 43,8 triệu bao loại 60 kg. Lượng cà phê lưu kho trên sàn ICE hiện ở mức 1,57 triệu bao.
Trái với arabica, robusta phiên vừa qua giảm 17 USD (1,3%) xuống 1,323 USD/tấn.
Tại Châu Á, giá cà phê gần như không thay đổi trong tuần này. Theo đó, người trồng cà phê ở Tây Nguyên bán loại nhân xô với giá 31.200-32.000 đồng (1,35- 1,39 USD)/kg, không đổi so với tuần trước; các thương nhân tại Việt Nam chào giá cà phê robusta loại 2 (5% đen và vỡ) ở mức cộng 80 – 90 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 3 trên sàn London, giảm từ mức +100  110 USD của tuần trước.
Indonesia chào giá robusta kỳ hạn tháng 3 cao hơn 250 USD/tấn so với giá tại London, trong khi kỳ hạn tháng 4 cao hơn 290 USD/tấn.
Hoạt động giao dịch ở cả Việt Nam và Indonesia trầm lắng. Việc thiếu container góp phần đáng kể làm cho giao dịch cà phê trở nên kém sôi động, trong khi Indonesia phải chờ đến tháng 3 mới thu hoạch vụ mới.
Giá cao su trên thị trường Nhật Bản tăng trong phiên vừa qua bởi hy vọng ông Biden sẽ tăng thêm các chương trình kích thích nền kinh tế Mỹ.
Kết thúc phiên này, cao su kỳ hạn tháng 6/2021 trên sàn Osaka tăng 3,8 JPY (1,6%) lên 241,9 JPY/kg. Trên sàn Thượng Hải, hợp đồng giao tháng 5 cũng tăng 55 CNY lên 14.745 CNY/tấn.
Giá bông trên sàn New York phiên vừa qua tăng lên mức cao nhất trong vòng hơn 2 năm do USD trượt giá và thị trường chứng khoán toàn cầu tăng điểm.
Bông kỳ hạn tháng 3/2021 tăng 1 US cent (1,2%) lên 82,59 cent/lb vào cuối phiên, sau khi có thời điểm trước dó lên 83,06 US cent, cao nhất kể từ tháng 9/2018.
Giá hàng hóa thế giới sáng 22/1/2021

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

53,13

-0,18

-0,34%

Dầu Brent

USD/thùng

56,18

+0,10

+0,18%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

35.330,00

+110,00

+0,31%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,49

-0,05

-1,89%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

154,79

+0,40

+0,26%

Dầu đốt

US cent/gallon

160,06

+0,02

+0,01%

Dầu khí

USD/tấn

454,75

-4,75

-1,03%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

49.510,00

+140,00

+0,28%

Vàng New York

USD/ounce

1.873,20

+3,00

+0,16%

Vàng TOCOM

JPY/g

6.225,00

-14,00

-0,22%

Bạc New York

USD/ounce

26,01

+0,24

+0,93%

Bạc TOCOM

JPY/g

86,90

0,00

0,00%

Bạch kim

USD/ounce

1.130,54

-0,17

-0,01%

Palađi

USD/ounce

2.369,80

0,00

0,00%

Đồng New York

US cent/lb

364,65

+0,50

+0,14%

Đồng LME

USD/tấn

8.044,50

+90,50

+1,14%

Nhôm LME

USD/tấn

1.980,50

+16,50

+0,84%

Kẽm LME

USD/tấn

2.728,00

+42,00

+1,56%

Thiếc LME

USD/tấn

21.633,00

+468,00

+2,21%

Ngô

US cent/bushel

523,25

+1,25

+0,24%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

658,75

-9,00

-1,35%

Lúa mạch

US cent/bushel

360,75

-3,25

-0,89%

Gạo thô

USD/cwt

13,25

+0,04

+0,26%

Đậu tương

US cent/bushel

1.368,00

-1,50

-0,11%

Khô đậu tương

USD/tấn

437,40

-5,00

-1,13%

Dầu đậu tương

US cent/lb

43,30

+0,76

+1,79%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

657,00

+8,60

+1,33%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.550,00

-19,00

-0,74%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

126,45

+1,25

+1,00%

Đường thô

US cent/lb

16,05

-0,22

-1,35%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

117,90

-0,40

-0,34%

Bông

US cent/lb

82,57

+0,98

+1,20%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

748,00

+48,00

+6,86%

Cao su TOCOM

JPY/kg

163,10

+1,00

+0,62%

Ethanol CME

USD/gallon

1,63

-0,03

-1,80%

 

 

Nguồn: VITIC / Reuters, Bloomberg