Năng lượng: Giá dầu tăng gần 2 USD/thùng lên mức cao nhất hơn 1 tháng, tiếp nối đà tăng của tuần trước khi các nhà đầu tư ngày càng lạc quan về triển vọng nhu cầu tiêu thụ nhiên liệu.
Kết thúc phiên, giá dầu ngọt nhẹ (WTI) tăng 1,88 USD, tương đương 2,4%, lên 80,33 USD/thùng, cao nhất kể từ cuối tháng 4/2024; dầu Brent tăng 1,63 USD, tương đương 2%, lên 84,25 USD/thùng, cũng là mức cao nhất kể từ tháng 4.
Tuần trước, cả hai loại dầu đều tăng tuần đầu tiên trong vòng 4 tuần sau khi báo cáo từ nhóm sản xuất OPEC+, Cơ quan Năng lượng Quốc tế và Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ gia tăng niềm tin rằng nhu cầu dầu sẽ cải thiện trong nửa cuối năm và giúp tồn kho giảm.
Việc OPEC+ cho biết kế hoạch tăng nguồn cung từ quý 4 năm nay có thể bị tạm dừng hoặc hủy bỏ tùy theo điều kiện thị trường cũng giúp giá ổn định. Kế hoạch đó, được công bố sau cuộc họp của nhóm vào ngày 2 tháng 6, đã dẫn đến một đợt bán tháo mạnh.
Nhà phân tích Ole Hansen của Ngân hàng Saxo cho biết “triển vọng về nhu cầu nhiên liệu mạnh mẽ trong quý tới và sự trấn an của Saudi về kế hoạch tăng giá trong tháng 10 tùy thuộc vào các điều kiện phổ biến và tập trung, cùng với việc OPEC+ cắt giảm hạn ngạch để giảm sản lượng và ổn định, tất cả dường như đang hỗ trợ giá tăng lên”.
Tuần trước, các nhà đầu tư đã mua lại một số lượng xăng mà họ đã bán vào tuần trước nữa, dữ liệu từ Ủy ban Giao dịch Hàng hóa Tương lai Hàng hóa Mỹ hôm thứ Sáu cho thấy.
Alex Hodes, nhà phân tích dầu tại công ty môi giới StoneX, cho biết dữ liệu kinh tế từ Trung Quốc cũng hỗ trợ hy vọng nhu cầu dầu từ nước nhập khẩu hàng đầu thế giới tăng lên.
Dữ liệu của chính phủ Trung Quốc hôm thứ Hai cho thấy đầu tư sản xuất tại nước này trong 5 tháng đầu năm nay cho thấy mức tăng trưởng mạnh mẽ 9,6%. Tuy nhiên, các dữ liệu khác lại trái chiều với sản lượng công nghiệp thấp hơn kỳ vọng.
Các nhà phân tích của AEGIS Hedging hôm thứ Hai lưu ý rằng giá dầu cũng được hỗ trợ bởi phí bảo hiểm rủi ro địa chính trị ngày càng tăng.
Những lo ngại về một cuộc chiến tranh Trung Đông lan rộng hơn vẫn tồn tại sau khi quân đội Israel hôm Chủ nhật cho biết rằng việc tăng cường hỏa lực xuyên biên giới từ phong trào Hezbollah của Lebanon vào Israel có thể gây ra sự leo thang nghiêm trọng.
Kim loại quý: Giá vàng giảm do lợi suất trái phiếu kho bạc tăng, trong khi các nhà đầu tư chờ đợi có thêm dữ liệu từ Mỹ và bình luận từ các quan chức Cục Dự trữ Liên bang để có thêm tín hiệu về triển vọng chính sách tiền tệ của Mỹ.
Cuối phiên này, giá vàng giao ngay giảm 0,7% xuống 2.317,08 USD/ounce; vàng giao sau giảm 0,9% xuống 2.329 USD.
Jim Wyckoff, nhà phân tích thị trường cấp cao tại Kitco Metals, cho biết: “Thực sự thiếu những tin tức cơ bản mới quan trọng, vì vậy thị trường vàng đang tìm hướng đi từ các thị trường bên ngoài”.
“Giá vàng có thể sẽ đi ngang trong khoảng từ 2.300 USD đến 2.400 USD cho đến khi có chất xúc tác cơ bản quan trọng tiếp theo, điều này có thể không xảy ra cho đến khoảng tháng 7.”
Lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm tăng sau khi giảm mạnh vào tuần trước, khiến vàng thỏi không sinh lãi kém hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư.
Chủ tịch Fed Philadelphia Patrick Harker hôm thứ Hai cho biết Fed sẽ có thể cắt giảm lãi suất cơ bản một lần trong năm nay nếu dự báo kinh tế của ông đúng.
Chủ tịch Fed Minneapolis Neel Kashkari hôm Chủ nhật cho biết đó là một “dự đoán hợp lý”, rằng ngân hàng trung ương Mỹ sẽ cắt giảm lãi suất một lần trong năm nay và đợi đến tháng 12 mới thực hiện điều đó.
Các nhà giao dịch hiện đang theo dõi chặt chẽ những bình luận sắp tới từ Chủ tịch Fed New York John Williams và Thống đốc Fed Lisa Cook.
Lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm đã tăng sau khi giảm mạnh vào tuần trước, khiến vàng thỏi không sinh lời trở nên kém hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư.
Việc công bố dữ liệu doanh số bán lẻ của Mỹ vào thứ Ba, số đơn xin trợ cấp thất nghiệp hàng tuần vào thứ Năm và chỉ số quản lý mua hàng chớp nhoáng vào thứ Sáu có thể mang lại cái nhìn rõ ràng hơn về mức tiêu dùng và sức mạnh của nền kinh tế Mỹ.
Ryan McKay, chiến lược gia hàng hóa cấp cao tại TD Securities, cho biết: “Dữ liệu lạm phát liên tục cho thấy yếu hơn dự kiến, cùng với các chi tiết ít tích cực hơn về cuộc họp của FOMC (Ủy ban thị trường mở liên bang), đã cho thấy nhu cầu vàng tăng lên”.
Về các kim loại quý khác, giá bạc giao ngay giảm 0,5% xuống 29,38 USD mỗi ounce, bạch kim tăng 1,3% lên 970,15 USD và palladium tăng 0,2% lên 891,92 USD.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng giảm xuống mức thấp nhất hơn tám tuần do dữ liệu công nghiệp của Trung Quốc cho thấy sự yếu kém.
Trong phiên, đồng kỳ hạn 3 tháng trên Sàn giao dịch kim loại London giảm xuống 9.587 USD/tấn, mức thấp nhất kể từ ngày 18 tháng 4. Lúc đóng cửa, hợp đồng này giảm 0,5% xuống 9.689 USD/tấn. Giá đến nay đã giảm 13% so với mức cao kỷ lục đạt được trong tháng 5, là 11.104,50 USD.
Reuters dẫn lời một thương nhân cho biết: “Một số người tiêu dùng đồng quay lại mua khi giá ở mức 9.600 đến 9.700 USD nhưng nhiều người đã hủy mua sau khi dữ liệu của Trung Quốc được công bố. Họ đang chờ xem liệu giá có giảm thêm nữa hay không”.
Triển vọng nhu cầu đối với kim loại công nghiệp đã bị che mờ bởi dữ liệu mới nhất từ Trung Quốc, nơi tăng trưởng sản lượng công nghiệp tháng 5 chậm lại còn 5,6%, thấp hơn mức dự báo 6%. Thị trường bất động sản sụt giảm, nợ chính quyền địa phương cao và giảm phát vẫn là mối quan tâm hàng đầu của nền kinh tế lớn thứ hai thế giới.
Tồn trữ đồng cũng tăng do nhu cầu mờ nhạt, với 4.050 tấn được giao đến các kho đăng ký với sàn LME, chủ yếu ở các địa điểm châu Á.
Ngoài ra còn có một lượng chì lớn đổ vào các kho, với 9.600 tấn được đưa vào kho ở Singapore, khiến lượng tồn kho lên mức cao nhất trong 4 tuần sau khi giảm hơn 1/3 kể từ tháng 4.
Giá chì trên sàn LME kết thúc phiên tăng 1% lên 2.160,50 USD/tấn.
Đối với các kim loại khác, giá nhôm giảm 0,8% xuống 2.498 USD/tấn sau khi Trung Quốc cho biết họ sản xuất 3,65 triệu tấn nhôm trong tháng 5. Sản lượng gần đạt mức cao nhất trong 10 năm.
Giá niken giảm 0,6% xuống 17.475 USD/tấn và thiếc giảm 0,6% xuống 32.125 USD trong khi kẽm tăng 1,8% lên 2.816,50 USD.
Giá quặng sắt kỳ hạn giảm sau khi một loạt dữ liệu kinh tế ở Trung Quốc thấp hơn kỳ vọng và khi lũ lụt và nhiệt độ cao ở nước này phủ bóng lên triển vọng nhu cầu ngắn hạn.
Hợp đồng quặng sắt giao tháng 9 trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên (DCE) của Trung Quốc đã chốt phiên giảm 1,63% xuống 813 nhân dân tệ (112,05 USD)/tấn; quặng sắt kỳ hạn tháng 7 trên Sàn giao dịch Singapore giảm 2,51% xuống 104,8 USD/tấn.
Trên Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải, giá thép cây giảm 0,74%, thép cuộn cán nóng giảm 0,63%, thanh thép giảm 1,24% và thép không gỉ giảm 0,61%.
Một loạt dữ liệu yếu hơn dự kiến đối với lĩnh vực bất động sản ở Trung Quốc, đã đè nặng lên tâm lý thị trường, ngay cả khi các nhà hoạch định chính sách tăng gấp đôi nỗ lực hỗ trợ lĩnh vực bất động sản yếu kém và củng cố niềm tin của người tiêu dùng.
Dữ liệu của cục thống kê Trung Quốc cho thấy đầu tư vào lĩnh vực bất động sản đã giảm 10,1% trong 5 tháng đầu năm 2024 so với một năm trước đó, sau khi giảm 9,8% trong 4 tháng đầu năm. Giá nhà mới của Trung Quốc đã giảm với tốc độ nhanh nhất trong hơn 9-1/2 tháng vào tháng 5.
Điều này xảy ra sau khi hoạt động cho vay của ngân hàng mới ở Trung Quốc trong tháng 5 hồi phục ít hơn nhiều so với dự kiến và một số thước đo tiền tệ quan trọng giảm xuống mức thấp kỷ lục, cho thấy nền kinh tế lớn thứ hai thế giới vẫn đang phải vật lộn để lấy lại chỗ đứng.
Lũ lụt ở các khu vực phía Nam và nhiệt độ cao cũng làm giảm nhu cầu đối với các sản phẩm thép.
Nông sản: Giá lúa mì và đậu tương Mỹ giảm mạnh, với lúa mì ở mức thấp nhất gần 2 tháng do áp lực bán của các quỹ trước khi bước vào một tuần nghỉ lễ ngắn. Trong khi đó, giá ngô kỳ hạn cũng giảm khi các thương gia theo dõi thời tiết của Mỹ vào đầu mùa trồng trọt.
Phần lớn vành đai trồng ngô của Mỹ được dự báo sẽ có ít nhất một số lượng mưa trong tuần này, với lượng mưa lên tới 4 inch ở một số khu vực, Karl Setzer, nhà phân tích ngũ cốc và đối tác tại Consus Ag cho biết.
Mặc dù Thung lũng Ohio, Đông Bắc và Trung Đại Tây Dương dự kiến sẽ phải đối mặt với một đợt nắng nóng khắc nghiệt trong tuần này, một số khu vực này cũng có thể thấy mưa rơi khi chỉ số nhiệt trải dài trên 100 độ F, cơ quan Dịch vụ Thời tiết Quốc gia Mỹcho biết.
Kết thúc phiên giao dịch, trên Sàn Chicago, giá lúa mì ở mức 5,92-1/2 USD/bushel, giảm 21-1/4 cent/bushel sau khi đã giảm xuống 5,90-3/4 USD/bushel, mức giá thấp nhất kể từ ngày 23/4. Giá ngô giảm 6-1/4 cent xuống 4,43-3/4 USD/bushel, trong khi đậu tương kết thúc thấp hơn 22 cent xuống 11,57-3/4 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 7 giảm 0,45 cent, tương đương 2,3%, xuống 18,98 cent/lb, sau khi tăng 2,26% trong tuần trước. Đường trắng kỳ hạn tháng 8 giảm 2,4% xuống 548,50 USD/tấn.
Thị trường đường toàn cầu niên vụ 2024/25 (từ tháng 10 đến tháng 9) dự kiến dư thừa 5,5 triệu tấn trong bối cảnh sản lượng tăng ở các khu vực trọng điểm, công ty thương mại và dịch vụ chuỗi cung ứng Czarnikow (CZ) cho biết.
Cơ quan thời tiết cho biết các vùng trồng đậu tương, bông và mía ở miền trung Ấn Độ đã thiếu hụt 29% lượng mua trong mùa này.
Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 9 tăng 48 USD, tương đương 1,2%, lên 4.057 USD/tấn, sau khi giảm 3% trong tuần trước; cà phê arabica kỳ hạn tháng 9 tăng 1,3% lên 2,273 USD/lb.
Giá cà phê robusta đã rời khỏi mức cao kỷ lục gần đây khi mưa đã quay trở lại với nhà sản xuất hàng đầu Việt Nam và vụ thu hoạch của nhà xuất khẩu lớn thứ 2 Indonesia đang có một khởi đầu tốt.
Tuy nhiên, nhìn chung vẫn còn những lo ngại rằng mưa tại Việt Nam đã đến quá muộn để đảo ngược thiệt hại do hạn hán gây ra vào đầu năm nay, có nghĩa là vụ mùa tới sẽ chỉ đạt mức dưới mức trung bình.
Giá cao su trên thị trường Nhật Bản giảm xuống mức thấp nhất 3 tuần do kinh tế Trung Quốc hồi phục không chắc chắn trong khi chứng khoán Tokyo sụt giảm cũng đè nặng lên tâm lý nhà đầu tư.
Trên sàn giao dịch cao su Osaka, giá cao su giao tháng 11/2024 chốt phiên giảm 10,8 yên, tương đương 3,2%, xuống mức 327,5 yên (2,1 USD)/kg, sau khi chạm mức thấp nhất kể từ ngày 27/5 là 327,3 yên trong phiên. Cao su giao tháng 9 trên Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải (SHFE) giảm 445 nhân dân tệ, kết thúc ở mức 14.885 nhân dân tệ (2.051 USD)/tấn, sau khi chạm mức thấp nhất trong hai tuần là 14.865 nhân dân tệ trước đó trong phiên. Cao su giao tháng 7 trên Sở giao dịch Singapore chốt phiên ở mức 171,9 US cent/kg, giảm 3%.
Jiong Gu, nhà phân tích tại Yutaka Trusty Securities Co Ltd, cho biết: “Lo ngại về sự phục hồi kinh tế chậm chạp của Trung Quốc đã làm tăng thêm áp lực thị trường, vốn đã bị ảnh hưởng bởi lo ngại về nhu cầu ô tô suy yếu do thuế quan của EU đối với xe điện Trung Quốc”.
“Ngoài ra, tâm lý e ngại rủi ro trên thị trường tài chính toàn cầu kể từ tuần trước trong bối cảnh bất ổn chính trị ở châu Âu cũng đã đè nặng lên tâm lý nhà đầu tư,” ông nói thêm.
Sản lượng công nghiệp tháng 5 của Trung Quốc thấp hơn mức dự kiến, với lĩnh vực bất động sản vẫn còn yếu, gây thêm áp lực lên Bắc Kinh về hỗ trợ chính sách để thúc đẩy tăng trưởng, nhưng doanh số bán lẻ đã vượt dự báo nhờ sự thúc đẩy trong kỳ nghỉ.
Dữ liệu chính thức cho thấy giá nhà mới của Trung Quốc trong tháng 5 đã giảm tháng thứ 11 liên tiếp do lĩnh vực bất động sản vẫn chưa thoát khỏi khủng hoảng chấp nỗ lực của chính phủ nhằm hạn chế tình trạng dư cung và hỗ trợ các nhà phát triển đang mắc nợ.
Ủy ban Châu Âu tuần trước cho biết sẽ áp thuế bổ sung lên tới 38,1% đối với ô tô điện nhập khẩu từ Trung Quốc từ tháng 7, có nguy cơ bị Bắc Kinh trả đũa vì cho biết sẽ thực hiện các biện pháp để bảo vệ lợi ích của mình.
Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

80,32

-0,01

-0,01%

Dầu Brent

USD/thùng

84,26

+0,01

+0,01%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

244,87

+0,18

+0,07%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,80

+0,01

+0,25%

Dầu đốt

US cent/gallon

248,76

+0,51

+0,21%

Vàng (Comex)

USD/ounce

2.338,30

+9,30

+0,40%

Vàng giao ngay

USD/ounce

2.322,44

+3,30

+0,14%

Bạc (Comex)

USD/ounce

29,56

+0,16

+0,56%

Bạch kim giao ngay

USD/ounce

975,81

+3,26

+0,34%

Đồng (Comex)

US cent/lb

444,75

+1,65

+0,37%

Đồng (LME)

USD/tấn

9.665,50

-76,00

-0,78%

Nhôm (LME)

USD/tấn

2.501,50

-16,00

-0,64%

Kẽm (LME)

USD/tấn

2.815,50

+48,00

+1,73%

Thiếc (LME)

USD/tấn

32.148,00

-170,00

-0,53%

Ngô (CBOT)

US cent/bushel

465,00

+2,00

+0,43%

Lúa mì (CBOT)

US cent/bushel

608,25

+0,25

+0,04%

Lúa mạch (CBOT)

US cent/bushel

330,50

+2,50

+0,76%

Gạo thô (CBOT)

USD/cwt

15,53

-0,04

-0,29%

Đậu tương (CBOT)

US cent/bushel

1.137,00

+6,75

+0,60%

Khô đậu tương (CBOT)

USD/tấn

347,30

+2,40

+0,70%

Dầu đậu tương (CBOT)

US cent/lb

43,96

+0,07

+0,16%

Hạt cải (ICE)

CAD/tấn

624,00

-0,30

-0,05%

Cacao (ICE)

USD/tấn

9.151,00

-550,00

-5,67%

Cà phê (ICE)

US cent/lb

227,30

+2,90

+1,29%

Đường thô (ICE)

US cent/lb

19,06

-0,43

-2,21%

Nước cam cô đặc đông lạnh (ICE)

US cent/lb

429,20

+6,80

+1,61%

Bông (ICE)

US cent/lb

71,46

-0,31

-0,43%

Lông cừu (ASX)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ (CME)

USD/1000 board feet

--

--

--

Cao su Singapore

US cent/kg

172,20

-2,00

-1,15%

Ethanol (CME)

USD/gallon

2,16

0,00

0,00%

 

 

Nguồn: Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)