Năng lượng: Giá dầu tiếp nối đợt phục hồi gần đây và tăng hơn 1% vào thứ Năm khi lãi suất của Mỹ giảm mạnh và dự trữ dầu thô toàn cầu giảm, át đi tác động từ mối lo ngại nhu cầu yếu mà nguyên nhân chủ yếu do Trung Quốc.
Kết thúc phiên, giá dầu Brent tăng 1,23 USD, hay 1,7%, lên 74,88 USD/thùng; dầu thô WTI của Mỹ tăng 1,04 USD, hay 1,5%, lên 71,95 USD một thùng.
Giá đã phục hồi sau khi dầu Brent giảm xuống dưới 69 USD lần đầu tiên trong gần ba năm vào ngày 10 tháng 9. Cả 2 loại dầu đều tăng trong 5/7 phiên kể từ hôm đó.
Ngân hàng trung ương Mỹ đã cắt giảm lãi suất một nửa điểm phần trăm vào thứ Tư. Việc cắt giảm lãi suất thường thúc đẩy hoạt động kinh tế và nhu cầu năng lượng, nhưng một số người cũng coi mức cắt giảm lớn này là dấu hiệu của thị trường lao động yếu kém ở Mỹ.
Ngân hàng Anh vào thứ Năm đã giữ nguyên lãi suất ở mức 5,0%.
Các nhà phân tích của UBS cho biết trong một lưu ý gửi đến khách hàng rằng dự trữ dầu thô toàn cầu đang giảm sẽ hỗ trợ giá dầu trong tương lai, đẩy giá dầu Brent trở lại trên 80 USD trong những tháng tới. Giá dầu thô cũng được thúc đẩy bởi căng thẳng gia tăng ở Trung Đông, Tim Snyder, nhà kinh tế trưởng tại Matador Economics cho biết.
Dữ liệu của Chính phủ Mỹ cho thấy dự trữ dầu thô của quốc gia sản xuất hàng đầu thế giới này đã giảm xuống mức thấp nhất trong một năm vào tuần trước
Các nhà chiến lược của Macquarie cho biết xu hướng tồn trữ dầu thô của Mỹ giảm có thể tăng tốc vào tuần tới vì xuất khẩu của Mỹ sẽ phục hồi đáng kể sau sự gián đoạn do cơn bão Francine gây ra vào tuần trước.
Các nhà phân tích của Citi dự đoán giá dầu thô Brent sẽ trong phạm vi 70 đến 75 USD/thùng trong quý tới.
Trong khi đó, nhu cầu của Trung Quốc yếu do nền kinh tế đang chậm lại đã hạn chế giá dầu tăng. Dữ liệu của cục thống kê cho thấy sản lượng lọc dầu tại Trung Quốc tháng 8 đã chậm lại tháng thứ 5 liên tiếp; tăng trưởng sản lượng công nghiệp cũng chậm lại ở mức thấp nhất trong năm tháng trong khi doanh số bán lẻ và giá nhà mới tiếp tục suy yếu.
Kim loại quý: Giá vàng tăng hơn 1% vào thứ Năm khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ khởi động chu kỳ nới lỏng tiền tệ với động thái giảm nửa phần trăm, thúc đẩy vàng thỏi lên mức cao nhất mọi thời đại và chỉ thấp hơn vài cent so với mức trần quan trọng là 2.600 USD trong phiên trước.
Vàng giao ngay kết thúc phiên tăng 1,2% lên 2.590,47 USD/ounce, vàng kỳ hạn tháng 12 tăng 0,6% lên 2.614,60 USD.
Giá giao ngay đã tăng lên mức cao kỷ lục là 2.599,92 USD vào thứ Tư sau khi Fed hạ lãi suất chính sách tham chiếu 50 điểm cơ bản xuống còn 4,75%-5,00%.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao ngay tăng 3,5% lên 31,11 USD một ounce; bạch kim tăng 2,3% lên 990,45 USD và palladium tăng 2,6% lên 1.089,25 USD.Các nhà hoạch định chính sách của Fed cũng dự báo lãi suất chuẩn sẽ giảm thêm một nửa điểm phần trăm vào cuối năm nay, một điểm phần trăm đầy vào năm tới và nửa điểm phần trăm vào năm 2026.
"Thị trường đang tính đến việc cắt giảm lãi suất lớn hơn và nhiều hơn nữa vì nền kinh tế Mỹ có cả thâm hụt tài chính và thương mại, và điều đó sẽ làm suy yếu thêm giá trị chung của đồng USD", Alex Ebkarian, giám đốc điều hành tại Allegiance Gold cho biết.
"Nếu bạn kết hợp các rủi ro địa chính trị với thâm hụt hiện tại ở Mỹ, cùng với môi trường lợi suất thấp và đồng USD yếu, thì sự kết hợp của tất cả những điều này chính là nguyên nhân dẫn đến đợt tăng giá vàng", ông Ebkarian nói thêm.
Việc nới lỏng chính sách tiền tệ của các ngân hàng toàn cầu, cùng với hoạt động mua vào mạnh mẽ của các ngân hàng trung ương và các mối quan ngại về địa chính trị đã thúc đẩy giá vàng tăng lên mức cao kỷ lục nhiều lần trong năm nay.
Vàng thỏi được coi là tài sản an toàn trong thời kỳ bất ổn chính trị và kinh tế. Vàng cũng có xu hướng phát triển mạnh trong môi trường lãi suất thấp.
"Theo quan điểm của chúng tôi, đợt tăng giá này có thể còn tiếp tục. Chúng tôi dự đoán giá sẽ lên tới 2.700 USD/oz vào giữa năm 2025. Cùng với các động lực rủi ro trong ngắn hạn, chúng tôi dự đoán nhu cầu ETF vàng sẽ tăng tốc trong những tháng tới", ngân hàng UBS cho biết. "Chúng tôi vẫn giữ quan điểm rằng bạc sẽ được hưởng lợi từ môi trường giá vàng tăng", UBS cho biết thêm thêm.Kim loại công nghiệp: Giá đồng đạt mức cao nhất 2 tháng và nhôm đạt mức cao nhất 3 tháng vào sau khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ cắt giảm lãi suất làm suy yếu đồng USD và hỗ trợ cho các kim loại phụ thuộc vào tăng trưởng.
Đồng kỳ hạn ba tháng trên Sàn giao dịch kim loại London tăng 1,3% lên 9.518,50 USD/tấn sau khi đạt 9.586,5 USD, mức giá cao nhất kể từ ngày 18 tháng 7 và vấp phải sự kháng cự từ đường trung bình động 100 ngày.
Đồng tiền Mỹ đã giảm, khiến kim loại có giá bằng USD trở nên hấp dẫn hơn đối với người mua sử dụng các loại tiền tệ khác, vì Fed đã bắt đầu chu kỳ nới lỏng tiền tệ của mình.
"Có rất nhiều cuộc tranh luận về cách diễn giải quy mô của đợt cắt giảm lãi suất này của Fed vì người ta có thể nhìn nhận theo hai cách", Dan Smith, người đứng đầu bộ phận nghiên cứu tại Amalgamated Metal Trading cho biết. "Bạn có thể lập luận rằng đó là tin tốt. Mặt khác, bạn có thể lập luận rằng Fed cảm thấy cần phải hành động nhanh chóng để hỗ trợ nền kinh tế và điều này báo hiệu rằng đang xuất hiện một số điểm yếu mà chúng ta vẫn chưa nhận thức được. Hiện tại, cách diễn giải theo hướng tăng giá đang thắng thế (đối với đồng)." Ông Smith cũng cho biết một số mô hình máy tính thuật toán thực hiện lệnh mua và bán chủ yếu dựa trên tín hiệu động lượng đã chuyển sang chế độ tăng giá.
Tuy nhiên, nền kinh tế Trung Quốc tiếp tục gửi tín hiệu trái chiều đối với mặt hàng đồng khi ngành xây dựng là ngành tiêu thụ kim loại chủ chốt đang gặp khó khăn, mặc dù nhu cầu từ ngành điện của nước này đang tăng.
Đồng nhân dân tệ của Trung Quốc đóng cửa gần mức cao nhất trong 16 tháng so với đồng USD với hy vọng rằng việc nới lỏng của Fed đã tạo điều kiện cho Bắc Kinh có thể tự do thực hiện chính sách tiền tệ của riêng mình.
Về những kim loại cơ bản khác, giá nhôm trên sàn LME cũng tăng 0,2% lên 2.540 USD/tấn sau khi đạt 2.569 USD, mức giá cao nhất kể từ ngày 13 tháng 6; kẽm tăng 1,5% lên 2.929 USD, niken tăng 0,6% lên 16.320 USD, chì tăng 1,7% lên 2.072,50 USD và thiếc tăng 1,0% lên 31.810 USD.
Trong nhóm kim loại đen, giá giá quặng sắt kỳ hạn tương lai tăng vào thứ năm khi triển vọng về gói kích thích tiền tệ mới của Trung Quốc và lượng hàng tồn kho giảm đã làm lu mờ mối lo ngại về nhu cầu trong nước suy yếu tại thị trường tiêu thụ hàng đầu thế giới.
Hợp đồng quặng sắt kỳ hạn tháng 1 trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên (DCE) của Trung Quốc kết thúc phiên tăng 1,69% lên 693,0 nhân dân tệ (98,10 USD)/tấn.
Quặng sắt kỳ hạn tháng 10 trên Sàn giao dịch Singapore tăng 2,46% lên 92,95 USD/tấn.
Giá các sản phẩm thép trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải tăng, với thép thanh tăng 2,26%, thép cây tăng 1,14%, thép cuộn cán nóng tăng 1,03% và thép không gỉ tăng 0,94%.
Theo một cuộc thăm dò của Reuters, thị trường dự đoán Trung Quốc sẽ cắt giảm lãi suất chính sách và lãi suất cho vay tham chiếu vào thứ Sáu, sau khi đợt cắt giảm lãi suất quá mức của Cục Dự trữ Liên bang đã loại bỏ một số rủi ro xung quanh sự sụt giảm mạnh của đồng nhân dân tệ.
Các nhà phân tích cho biết các nhà hoạch định chính sách của Trung Quốc có thể sẽ tăng cường các biện pháp để ít nhất là giúp nền kinh tế đạt được mục tiêu tăng trưởng ngày càng đầy thách thức trong năm 2024, với trọng tâm là thúc đẩy nhu cầu để chống lại áp lực giảm phát dai dẳng.
Dữ liệu kinh tế của tháng 8 đã giảm dưới mức kỳ vọng, làm tăng tính cấp thiết phải triển khai thêm các biện pháp kích thích để hỗ trợ nền kinh tế. Trong khi đó, lượng quặng sắt nhập khẩu do 64 nhà sản xuất thép Trung Quốc nắm giữ đã giảm 0,4% so với tuần trước xuống còn 10,9 triệu tấn tính đến ngày 18 tháng 9, công ty tư vấn Mysteel của Trung Quốc cho biết, và thêm rằng sự sụt giảm này là do các nhà máy thép tiêu thụ nhiều nguyên liệu hơn.
Mysteel cho biết thêm, lượng tồn kho thép liên tục giảm có thể sẽ hỗ trợ giá các sản phẩm thép, đặc biệt là thép thanh và thép dây.
Tính đến ngày 13 tháng 9, dữ liệu của Steelhome cho thấy, trên khắp các cảng của Trung Quốc, tổng lượng quặng sắt dự trữ đã giảm 0,73% so với tuần trước.
Các nhà phân tích của Westpac cho biết xuất khẩu thép của Trung Quốc đã đạt mức cao kỷ lục vào tháng 8, mức tăng xuất khẩu đột biến cho thấy nhu cầu trong nước yếu.
Nông sản: Giá ngô và lúa mì Mỹ giảm vào thứ năm sau khi Bộ Nông nghiệp Mỹ công bố dữ liệu doanh số xuất khẩu không mấy ấn tượng. Giá đậu tương cũng giảm theo mặc dù có nhiều con số khả quan hơn.
Hợp đồng ngô hoạt động tích cực nhất trên Sàn giao dịch hàng hóa Chicago (CBOT) giảm 7 US cent xuống còn 4,05-3/4 USD/bushel, trong khi lúa mì CBOT giảm 1-1/4 US cent xuống 5,65-1/2 USD/bushel và đậu tương giảm 3/4 US cent xuống 10,13-1/4 USD/bushel.
USDA báo cáo doanh số xuất khẩu lúa mì 2024/25 của Mỹ trong tuần kết thúc vào ngày 12 tháng 9 là 246.300 tấn, thấp hơn kỳ vọng thương mại từ 300.000 đến 650.000 tấn; xuất khẩu ngô đạt 847.400 tấn, ở mức trung bình của kỳ vọng thương mại từ 550.000 đến 1.400.000 tấn, theo cuộc thăm dò các nhà phân tích của Reuters.
Thị trường lúa mì tuần trước bất ổn vào do nguy cơ cuộc chiến của Nga với Ukraine leo thang, cũng như thời tiết bất lợi đe dọa cắt giảm cả vụ thu hoạch năm nay và vụ mùa năm sau tại các quốc gia Biển Đen.
Giá đường thô tăng lên mức cao nhất năm tháng bởi triển vọng sản lượng đường và vụ mía mới ở khu vực trung nam của Brazil xấu đi.
Đường thô kỳ hạn tháng 10 tăng 0,77 cent, tương đương 3,6%, lên 21,93 cent/lb, sau khi đạt mức cao nhất trong năm tháng là 22,08 cent. Đường trắng kỳ hạn tháng 12 tăng 2,4% lên 568,60 USD/tấn.
Giá tăng bởi triển vọng sản xuất đường trong năm nay và vụ mía tiếp theo (2025/26) giảm sút tại khu vực trung nam của Brazil sau một đợt hạn hán kéo dài. Năng suất mía vụ 2024/25 tại khu vực trung nam Brazil cho đến cuối tháng 8 đã giảm 7,4% so với mùa trước, trong bối cảnh thời tiết khô hạn và cháy rừng tại quốc gia sản xuất lớn nhất thế giới, dữ liệu từ công ty nghiên cứu mía CTC cho thấy.
Giá cà phê tiếp tục giảm từ với mức cao nhất trong nhiều năm gần đây. Cụ thể, cà phê arabica kỳ hạn tháng 12 giảm 2,75 US cent, hay 1,0%, xuống còn 2,6165 USD/lb, kéo dài đà giảm từ mức cao nhất trong 13 năm đạt tới vào thứ Hai. Cà phê robusta kỳ hạn tháng 11 giảm 1,6% xuống còn 5.248 USD/tấn.
Các đại lý cho biết thị trường được hỗ trợ bởi sản lượng của Brazil năm nay dự kiến sẽ giảm và lo ngại rằng thời tiết khô hạn sẽ hạn chế sản lượng vào năm tới.
Sản lượng cà phê ở Brazil năm 2024 dự kiến sẽ thấp hơn dự báo ban đầu vào do điều kiện thời tiết bất lợi ảnh hưởng đến các giai đoạn phát triển chính của cây trồng, cơ quan cung cấp lương thực quốc gia Conab cho biết.
Giá cao su trên thị trường Nhật Bản kỳ hạn tương lai giảm tăng vào đầu phiên do triển vọng nhu cầu mạnh mẽ từ Trung Quốc, nhưng giảm trở lại vào cuối phiên.
Kết thúc phiên, hợp đồng cao su giao tháng 2 của Sàn giao dịch Osaka (OSE) cửa giảm 1,5 yên hoặc 0,4% xuống 373,4 yên (2,62 USD)/kg, sau khi tăng lên 381,6 USD vào đầu phiên, mức cao nhất kể từ ngày 30 tháng 8.
Hợp đồng cao su tháng 1 trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải (SHFE) kết thúc tăng 330 nhân dân tệ, tương đương 1,87%, lên 18.020 nhân dân tệ (2.551,00 USD)/tấn.
Hợp đồng cao su tháng 10 trên sàn giao dịch SICOM của sàn Singapore đóng cửa ở mức 196,1 cent Mỹ/kg, tăng 1,7% so với phiên trước.
Hợp đồng cao su butadien tháng kỳ hạn tháng 11 trên sàn SHFE tăng 280 nhân dân tệ, hay 1,77%, lên 16.125 nhân dân tệ (2.282,73 USD)/tấn.
Trang thông tin tài chính Trung Quốc Hexun Futures cho biết trong một lưu ý rằng sản xuất ở hạ nguồn đã ổn định và ngành công nghiệp ô tô nước này đã dần thoát khỏi mùa thấp điểm.
Thị trường cao su thiên nhiên dự kiến sẽ tiếp tục biến động và tăng trong ngắn hạn do lo ngại ngày càng tăng về tình hình nguồn cung xấu đi ở các nước xuất khẩu chính tại Đông Nam Á, Jom Jacob, nhà phân tích chính của công ty phân tích What Next Rubber có trụ sở tại Ấn Độ, cho biết. Ông nói thêm rằng giá cao su butadien tăng càng hỗ trợ cho thị trường cao su thiên nhiên.
Bộ trưởng thương mại Trung Quốc hôm thứ Tư cho biết Bắc Kinh sẽ tiếp tục đàm phán "cho đến phút cuối" về cuộc điều tra xe điện của Liên minh châu Âu.
Giá hàng hóa thế giới:

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

71,91

-0,04

-0,06%

Dầu Brent

USD/thùng

74,77

-0,11

-0,15%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

205,30

-0,70

-0,34%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,35

+0,01

+0,21%

Dầu đốt

US cent/gallon

217,12

-0,08

-0,04%

Vàng (Comex)

USD/ounce

2.617,30

+2,70

+0,10%

Vàng giao ngay

USD/ounce

2.592,50

+5,76

+0,22%

Bạc (Comex)

USD/ounce

31,42

-0,01

-0,03%

Bạch kim giao ngay

USD/ounce

990,05

+1,95

+0,20%

Đồng (Comex)

US cent/lb

438,00

+3,30

+0,76%

Đồng (LME)

USD/tấn

9.515,00

+114,50

+1,22%

Nhôm (LME)

USD/tấn

2.539,50

+3,00

+0,12%

Kẽm (LME)

USD/tấn

2.929,50

+43,50

+1,51%

Thiếc (LME)

USD/tấn

31.823,00

+229,00

+0,72%

Ngô (CBOT)

US cent/bushel

406,50

+0,75

+0,18%

Lúa mì (CBOT)

US cent/bushel

571,75

+6,25

+1,11%

Lúa mạch (CBOT)

US cent/bushel

369,50

+5,00

+1,37%

Gạo thô (CBOT)

USD/cwt

15,48

-0,04

-0,29%

Đậu tương (CBOT)

US cent/bushel

1.015,75

+2,50

+0,25%

Khô đậu tương (CBOT)

USD/tấn

322,70

+1,10

+0,34%

Dầu đậu tương (CBOT)

US cent/lb

41,02

+0,09

+0,22%

Hạt cải (ICE)

CAD/tấn

583,70

+1,10

+0,19%

Cacao (ICE)

USD/tấn

7.750,00

-64,00

-0,82%

Cà phê (ICE)

US cent/lb

261,65

-2,75

-1,04%

Đường thô (ICE)

US cent/lb

22,04

+0,49

+2,27%

Nước cam cô đặc đông lạnh (ICE)

US cent/lb

476,15

-20,00

-4,03%

Bông (ICE)

US cent/lb

73,06

+0,03

+0,04%

Lông cừu (ASX)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ (CME)

USD/1000 board feet

--

--

--

Cao su Singapore

US cent/kg

197,90

-0,40

-0,20%

Ethanol (CME)

USD/gallon

2,16

0,00

0,00%