Năng lượng: Giá dầu tăng sau khi Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) báo cáo dữ liệu dự trữ dầu thô giảm và thị trường việc làm Mỹ hạ nhiệt làm dấy lên hy vọng Cục Dự trữ Liên bang (Fed) có thể sớm cắt giảm lãi suất.
Kết thúc phiên, giá dầu Brent tăng 64 cent, tương đương 0,75%, lên 85,71 USD/thùng, mức cao nhất trong phiên là 85,89 USD, cũng là mức cao nhất kể từ ngày 1/5.
Hợp đồng dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) kỳ hạn tháng 7, hết hạn vào thứ Năm, kết thúc ở mức 82,17 USD/thùng, tăng 60 cent, tương đương 0,74%.
"Thị trường chắc chắn đang có sự phục hồi", Phil Flynn, nhà phân tích của Price Futures Group cho biết.
EIA cho biết dự trữ dầu thô của Mỹ trong tuần kết thúc vào ngày 14/6 đã giảm 2,5 triệu thùng xuống còn 457,1 triệu thùng, so với kỳ vọng của các nhà phân tích trong cuộc thăm dò của Reuters là giảm 2,2 triệu thùng.
EIA cho biết, lượng dầu dự trữ tại Cushing, Oklahoma, trung tâm giao hàng cho dầu thô tương lai của Mỹ, tăng 307.000 thùng.
Không có hợp đồng dầu WTI nào được ký kết vào thứ Tư do là ngày lễ ở Mỹ, khiến giao dịch phần lớn bị kìm hãm. Hợp đồng kỳ hạn tháng 8 - hoạt động tích cực hơn - tăng 60 US cent lên 81,31 USD/thùng.
Số lượng người Mỹ nộp đơn xin trợ cấp thất nghiệp mới đã giảm vào tuần trước.
Động lực của thị trường lao động cùng với nền kinh tế nói chung đã giảm xuống khi Fed thắt chặt chính sách tiền tệ để chống lạm phát. Với áp lực đó lắng xuống, vẫn còn áp lực đối với quá trình cắt giảm lãi suất trong năm nay. Lãi suất thấp giảm có thể hỗ trợ giá dầu, vốn đã bị kéo xuống trong năm nay do nhu cầu toàn cầu ảm đạm. Việc Mỹ cắt giảm lãi suất sẽ khiến việc vay vốn rẻ hơn ở nền kinh tế lớn nhất thế giới, thúc đẩy nhu cầu dầu mỏ khi sản lượng tăng lên.
Nhà phân tích Ricardo Evangelista của ActivTrades cho biết giá dầu cũng có khả năng tiếp tục được hỗ trợ bởi mức phí bảo hiểm rủi ro địa chính trị ngày càng tăng do xung đột ở Trung Đông.
Tuy nhiên, kỳ vọng về việc tăng lượng hàng tồn kho dường như đang làm lu mờ nỗi lo về căng thẳng địa chính trị leo thang hiện nay, Priyanka Sachdeva, nhà phân tích thị trường cấp cao tại Phillip Nova cho biết.
Nhu cầu dầu tăng vào mùa hè, hoạt động của nhà máy lọc dầu và rủi ro thời tiết đang diễn ra cùng với việc cắt giảm sản lượng mở rộng của nhóm các nhà sản xuất OPEC+ có nghĩa là "cán cân cung – cầu dầu sẽ thắt chặt và hàng tồn kho sẽ bắt đầu giảm trong những tháng mùa hè", các nhà phân tích hàng hóa của JPMorgan đã viết.
Ngân hàng Anh đã giữ nguyên lãi suất chính ở mức cao nhất, 16 năm, là 5,25% trước thềm cuộc bầu cử toàn quốc của Anh vào ngày 4 tháng 7.
Kim loại quý: Giá vàng tăng hơn 1% lên mức cao nhất 2 tuần, khi dữ liệu kinh tế Mỹ gần đây cho thấy dấu hiệu suy thoái của nền kinh tế lớn nhất thế giới thúc đẩy triển vọng Fed sẽ cắt giảm lãi suất trong năm nay.
Kết thúc phiên này, giá vàng giao ngay tăng 1,4% lên 2.358,79 USD/ounce, cao nhất kể từ ngày 7/6/2024; vàng giao sau tăng 0,9% lên 2.369 USD.
"Thị trường bắt đầu ngày càng kỳ vọng ngân hàng trung ương Mỹ sẽ bắt đầu chương trình nới lỏng của mình. Tôi cho rằng có thể có một số vị thế mua dài hạn", Bart Melek, giám đốc chiến lược hàng hóa tại TD Securities cho biết.
Dữ liệu cho thấy số đơn xin trợ cấp thất nghiệp của Mỹ đã giảm trong tuần vừa qua, cho thấy thị trường lao động nhìn chung ổn định. Số nhà ở mới xây của Mỹ trong tháng 5 giảm 5,2% so với cùng kỳ năm trước, xuống 982.000 căn. Dữ liệu tuần trước cho thấy sự điều tiết trên thị trường lao động và áp lực giá cả, tiếp theo là dữ liệu bán lẻ yếu vào thứ Ba, cho thấy hoạt động kinh tế vẫn ảm đạm trong quý 2.
Theo CME FedWatch Tool, các nhà giao dịch hiện đang định giá khoảng 64% khả năng Fed sẽ cắt giảm lãi suất vào tháng 9. Lãi suất hạ làm giảm chi phí cơ hội của việc nắm giữ vàng thỏi không mang lại lợi nhuận.
Nhu cầu trú ẩn an toàn, được thúc đẩy bởi sự bất ổn về địa chính trị và kinh tế, cũng như việc mua vào liên tục của các ngân hàng trung ương đã góp phần đẩy giá vàng tăng từ tháng 3 đến tháng 5, đưa giá giao ngay lên mức cao kỷ lục là 2.449,89 đô la vào ngày 20 tháng 5.
Về các kim loại quý khác, giá bạc giao ngay tăng 3,4% lên 30,77 USD/ounce, bạch kim vững ở mức 980,69 USD và palladium tăng 2,7% lên 928,84 USD.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng tăng phiên thứ ba liên tiếp do hy vọng nhu cầu ở Trung Quốc được cải thiện sau khi giá giảm gần đây và khi thị trường chứng khoán thế giới đạt mức cao kỷ lục.
Kết thúc phiên, giá đồng giao sau 3 tháng trên Sàn giao dịch kim loại London (LME) tăng 0,6% lên 9.847,50 USD/tấn.
Được thúc đẩy bởi nhu cầu dự kiến gia tăng từ quá trình chuyển đổi năng lượng xanh, đồng đã đạt mức cao kỷ lục là 11.104,50 đô la vào ngày 20 tháng 5. Kể từ đó, giá đã bị ảnh hưởng bởi dữ liệu kinh tế Trung Quốc chậm chạp và không chắc chắn về lãi suất của Mỹ.
Tuy nhiên, việc giá giảm gần đây đã thu hút một số đơn đặt hàng từ Trung Quốc, dẫn đến việc giảm lượng dự trữ, Jinrui Futures của Trung Quốc cho biết.
Trên thị trường tài chính nói chung, Phố Wall đã giao dịch trở lại sau một ngày nghỉ và đẩy chỉ số chứng khoán toàn cầu MSCI All-World lên mức cao kỷ lục mới trong ngày thứ hai liên tiếp, được thúc đẩy bởi cổ phiếu AI và hy vọng về lãi suất giảm.
Trong khi đó, lượng đồng dự trữ tại các kho đã đăng ký với sàn LME đạt 161.925 tấn, mức cao nhất kể từ ngày 4 tháng 1, sau khi giao 3.450 tấn tại Châu Á, dữ liệu LME hàng ngày cho thấy.
"Các nhà máy luyện kim của Trung Quốc tiếp tục tăng sản lượng mặc dù nguồn cung quặng đồng khan hiếm và chi phí xử lý giảm xuống mức âm", Macquarie cho biết trong một thông báo. .
Macquarie dự đoán thị trường đồng toàn cầu sẽ thiếu hụt chút ít trong năm 2024 và thặng dư vào năm 2025-2027 trước khi chuyển sang thâm hụt nhiều hơn và đẩy giá tăng lên 11.500 USD/tấn vào năm 2028.
"Giá đồng tăng trong năm nay đã góp phần rất lớn vào việc cân bằng lại thị trường bằng cách khuyến khích chế biến phế liệu nhiều hơn, qua đó bù đắp cho tình trạng khan hiếm quặng cô đặc tại các nhà máy luyện kim của Trung Quốc", Macquarie cho biết.
Về phía cung, Vale của Brazil đã nâng dự báo sản lượng đồng và niken năm 2026.
Về các kim loại cơ bản khác, cũng trên sàn LME, giá nhôm tăng 0,9% lên 2.522 USD/tấn, kẽm tăng 0,1% lên 2.870,50 USD, chì tăng 0,8% lên 2.215 USD, thiếc tăng 2,2% lên 33.025 USD và niken tăng 0,3% lên 17.420 USD.
Các nhà phân tích cho biết giá quặng tăng nhẹ trong phiên giao dịch buổi sáng, với việc thị trường tập trung vào nhu cầu bền vững đến từ việc một số nhà máy tiếp tục sản xuất.
"Biên lợi nhuận ngành thép đã cải thiện phần nào sau khi các nhà sản xuất thép hạ giá thu mua than cốc, tạo điều kiện cho giá quặng sắt tăng", các nhà phân tích tại Maike Futures cho biết trong một lưu ý, nhưng thêm rằng khả năng tăng giá sẽ tương đối hạn chế.
Giá quặng sắt bị mắc kẹt trong phạm vi dao động hẹp khi các thương nhân cân nhắc tồn kho tại các cảng ở mức cao và triển vọng Trung Quốc cắt giảm sản lượng thép thô.
Kết thúc phiên, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9 trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên (DCE) của Trung giảm 0,36% xuống 824,5 nhân dân tệ (113,56 USD)/tấn. Quặng sắt kỳ hạn tháng 7 trên Sàn giao dịch Singapore giảm 0,33% xuống 106,95 USD/tấn, sau khi tăng hơn 1% lúc đầu phiên, một phần được hỗ trợ bởi đồng đô la Mỹ yếu đi.
Trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải, giá thép cây giảm 0,85%, thép cuộn cán nóng giảm 0,55%, thanh thép ít thay đổi, trong khi thép không gỉ tăng 0,68%.
Trung Quốc vừa quyết định giữ nguyên lãi suất cho vay, mặc dù một loạt dữ liệu gần đây cho thấy cần có thêm nhiều biện pháp hỗ trợ để củng cố sự phục hồi kinh tế.
Tại Trung Quốc, những người tham gia thị trường hiện đang tìm kiếm định hướng từ đại hội Đảng, một cuộc họp quan trọng của ủy ban trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc sẽ được tổ chức vào tháng 7. Dự kiến Đại hội sẽ tập trung vào việc cải cách sâu rộng và thúc đẩy hiện đại hóa Trung Quốc.
Nông sản: Giá ngô Mỹ giảm trong khi đậu tương đóng cửa ở mức thấp nhất 2 tháng do dự báo mưa lớn làm giảm bớt lo ngại về một đợt nắng nóng ở miền trung Mỹ gây căng thẳng cho mùa màng. Đối với lúa mì, dự báo về mưa ở Nga và dự kiến sản lượng tăng cũng gây áp lực lên giá. Công ty tư vấn IKAR hôm thứ Tư đã nâng dự báo về vụ lúa mì của nước này lên 82 triệu tấn, từ mức 81,5 triệu tấn dự báo trước đây.
Kết thúc phiên này, trên sàn Chicago, giá đậu tương kỳ hạn tháng 7 giảm 18-3/4 cent xuống 11,55-1/4 USD/bushel, thấp nhất kể từ ngày 19/4, trong khi ngô giảm 10-1/4 cent xuống 4,39-3/4 USD/bushel và lúa mì giảm 9-1/4 cent xuống 5,72-3/4 USD/bushel, cũng là mức thấp nhất trong hai tháng.
Theo Commodity Weather Group, mưa ở miền trung nước Mỹ dự kiến sẽ bắt đầu từ thứ Năm và kéo dài trong 15 ngày tới, với những cơn mưa lớn nhất ở Tây Bắc Trung Tây trong hai tuần tới và mưa rào ở phía nam và phía đông trong ngày 11-15. Dự báo lượng mưa cho các khu vực trồng ngô và đậu tương thực sự tạo ra điều kiện phát triển lý tưởng cho cây trồng.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 7 giảm 0,03 cent, tương đương 0,2%, xuống 18,89 cent/lb; đường trắng kỳ hạn tháng 8 vững ở mức 552,70 USD/tấn.
Công ty Copersucar của Brazil, công ty buôn bán đường lớn nhất thế giới, lạc quan về giá đường trong trung hạn vì thời tiết khô hạn ở quốc gia sản xuất đường hàng đầu thế giới này sẽ khiến sản lượng trong mùa vụ 2024/25 bắt đầu vào tháng 4 giảm sút.
Giá cà phê Robusta tăng vào thứ năm, được thúc đẩy bởi nguồn cung khan hiếm tại Việt Nam, quốc gia trồng cà phê robusta hàng đầu, trong khi giá cà phê arabica cũng tăng.
Theo đó, cà phê robusta kỳ hạn tháng 9 tăng 116 USD, tương đương 2,9%, lên 4.176 USD/tấn, tăng trở lại mức đỉnh kỷ lục 4.394 USD thiết lập hồi đầu tháng này. Cà phê arabica kỳ hạn tháng 9 tăng 1,8% lên 2,3035 USD/lb khi các đại lý tiếp tục theo dõi chặt chẽ vụ thu hoạch tại Brazil.
Reuters dẫn lời một thương nhân có trụ sở tại khu vực Tây Nguyên cho biết "Nguồn cung tại Việt Nam hiện đang cực kỳ khan hiếm và giá vẫn ở mức cao nên không có nhiều giao dịch được chốt".
Các đại lý cho biết vụ thu hoạch đang diễn ra nhanh hơn một chút so với tốc độ của mùa trước nhưng kích cỡ hạt cà phê nhỏ. USDA dự báo sản lượng cà phê toàn cầu sẽ tăng 4% lên 176,23 triệu bao.
Tại Việt Nam, giá cà phê giảm nhẹ do giao dịch chậm và nguồn cung thấp, trong khi chênh lệch giá ở Indonesia giảm so với tuần trước.
Người trồng cà phê ở khu vực Tây Nguyên bán cà phê hạt với giá 118.800-120.000 đồng (4,67-4,72 USD)/kg, giảm nhẹ so với mức 120.000-121.000 đồng một tuần trước. Tại Indonesia, cà phê robusta Sumatra được chào bán với giá cao hơn 980 USD so với hợp đồng kỳ hạn tháng 7 trên sàn London, giảm so với mức cộng 1.050 USD vào tuần trước.
Trong 8 tháng đầu niên vụ 2023/24 bắt đầu từ tháng 10 năm ngoái, Việt Nam đã xuất khẩu gần 1,2 triệu tấn cà phê, tương đương 80% sản lượng vụ hiện tại và giảm 7% so với cùng kỳ niên vụ trước.
Giá cao su kỳ hạn tương lai trên thị trường Nhật Bản tăng phiên thứ ba liên tiếp do giá cao su tổng hợp tăng và dự đoán thời tiết ẩm ướt kéo dài ở nước sản xuất cao su hàng đầu thế giới - Thái Lan.
Hợp đồng cao su giao tháng 11 trên sàn Osaka kết thúc phiên tăng 1,5 yên, tương đương 0,45%, lên 332 yên (2,10 USD)/kg. Hợp đồng cao su giao tháng 9 trên Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải (SHFE) tăng 195 nhân dân tệ, tương đương 1,31%, lên 15.080 nhân dân tệ (2.077,51 USD)/tấn. Hợp đồng cao su giao tháng 7 tại sở giao dịch SICOM, Singapore ở mức 171,4 US cent/kg, giảm 0,3%.
Hợp đồng cao su butadien giao tháng 7 trên sàn SHFE tăng 75 nhân dân tệ, tương đương 0,5%, lên 15.210 nhân dân tệ (2.095,42 USD)/tấn.
Cơ quan khí tượng Thái Lan đã mở rộng cảnh báo về "mưa lớn đến rất lớn và mưa tích tụ có thể gây ra lũ quét và ngập lụt" từ ngày 21 đến 25 tháng 6. Mưa lớn kéo dài có thể ảnh hưởng tiêu cực đến năng suất cao su.
Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

82,17

+0,60

+0,74%

Dầu Brent

USD/thùng

85,58

-0,13

-0,15%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

249,66

-0,42

-0,17%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,73

-0,02

-0,58%

Dầu đốt

US cent/gallon

252,20

-0,25

-0,10%

Vàng (Comex)

USD/ounce

2.374,60

+5,60

+0,24%

Vàng giao ngay

USD/ounce

2.361,21

+1,12

+0,05%

Bạc (Comex)

USD/ounce

30,96

-0,19

-0,60%

Bạch kim giao ngay

USD/ounce

982,54

-1,73

-0,18%

Đồng (Comex)

US cent/lb

449,75

-2,55

-0,56%

Đồng (LME)

USD/tấn

9.858,00

+72,00

+0,74%

Nhôm (LME)

USD/tấn

2.521,50

+22,50

+0,90%

Kẽm (LME)

USD/tấn

2.873,50

+4,50

+0,16%

Thiếc (LME)

USD/tấn

33.086,00

+702,00

+2,17%

Ngô (CBOT)

US cent/bushel

458,50

+1,75

+0,38%

Lúa mì (CBOT)

US cent/bushel

588,25

+2,25

+0,38%

Lúa mạch (CBOT)

US cent/bushel

325,75

-1,00

-0,31%

Gạo thô (CBOT)

USD/cwt

15,63

-0,03

-0,19%

Đậu tương (CBOT)

US cent/bushel

1.118,75

+2,00

+0,18%

Khô đậu tương (CBOT)

USD/tấn

340,80

+0,60

+0,18%

Dầu đậu tương (CBOT)

US cent/lb

44,30

-0,07

-0,16%

Hạt cải (ICE)

CAD/tấn

619,70

+1,60

+0,26%

Cacao (ICE)

USD/tấn

9.055,00

-335,00

-3,57%

Cà phê (ICE)

US cent/lb

230,35

+4,10

+1,81%

Đường thô (ICE)

US cent/lb

19,02

+0,03

+0,16%

Nước cam cô đặc đông lạnh (ICE)

US cent/lb

419,10

+8,40

+2,05%

Bông (ICE)

US cent/lb

72,12

-0,50

-0,69%

Lông cừu (ASX)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ (CME)

USD/1000 board feet

--

--

--

Cao su Singapore

US cent/kg

172,10

-3,30

-1,88%

Ethanol (CME)

USD/gallon

2,16

0,00

0,00%

 

 

Nguồn: Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)