Năng lượng: Giá dầu giảm 1% xuống mức thấp nhất 2 tuần do giảm lo ngại nguồn cung ở Trung Đông sau khi Israel chấp nhận đề xuất giải quyết những bất đồng ngăn chặn thỏa thuận ngừng bắn tại Gaza và kinh tế Trung Quốc trì trệ ảnh hưởng đến nhu cầu nhiên liệu.
Kết thúc phiên, giá dầu thô Brent kỳ hạn tháng 10/2024 giảm 46 US cent, tương đương 0,6%, xuống 77,2 USD/thùng; dầu WTI kỳ hạn tháng 9/2024 giảm 33 US cent, tương đương 0,4%, xuống 74,04 USD/thùng; dầu WTI kỳ hạn tháng 10/2024 giảm 49 US cent xuống 73,17 USD/thùng.
Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken đã đến thăm Ai Cập và thúc đẩy tiến trình hướng tới thỏa thuận ngừng bắn ở Gaza và giải cứu con tin. Những khác biệt lớn vẫn cần được giải quyết trong các cuộc đàm phán sẽ diễn ra trong tuần này.
"Bất chấp các cuộc đàm phán ngừng bắn đang diễn ra, các cuộc đụng độ giữa Israel và Hamas vẫn tiếp diễn và thị trường sẽ vẫn rất nhạy cảm với bất kỳ diễn biến nào trong khu vực", nhà phân tích cấp cao Svetlana Tretyakova của Rystad Energy cho biết, đồng thời thêm rằng: "Nếu các yếu tố cơ bản của thị trường không sớm phá vỡ xu hướng giảm giá này, OPEC+ có thể sẽ do dự trong việc sớm chấm dứt các đợt tự nguyện cắt giảm sản lượng ".
Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các đồng minh như Nga (OPEC+) cho biết tăng trưởng nhu cầu dầu toàn cầu trong những tháng tới cần mạnh mẽ, nếu không thị trường sẽ khó có thể hấp thụ được nguồn cung tăng theo kế hoạch của nhóm từ tháng 10/2024.
Thành viên của OPEC là Saudi Arabia – nước xuất khẩu dầu lớn nhất thế giới – cho biết, xuất khẩu dầu thô của họ trong tháng 6/2024 giảm xuống 6,047 triệu thùng/ngày (bpd) từ mức 6,118 triệu thùng/ngày trong tháng 5/2024.
Dữ liệu từ Trung Quốc – nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới – cho thấy giá nhà mới trong tháng 7/2024 giảm mạnh nhất 9 năm, sản lượng công nghiệp chậm lại, tăng trưởng xuất khẩu và đầu tư giảm và tỉ lệ thất nghiệp tăng.
Mối lo ngại về nhu cầu nhiên liệu tại Mỹ - nền kinh tế lớn nhất thế giới – đã gây áp lực đối với giá dầu sưởi ấm của Mỹ, khiến giá 2 phiên liên tiếp giảm xuống mức thấp nhất kể từ tháng 5/2023. Đồng thời, giá xăng của Mỹ giảm xuống mức thấp nhất kể từ tháng 2/2024.
Các nhà phân tích dự đoán các công ty năng lượng Mỹ đã rút khoảng 2,7 triệu thùng dầu thô khỏi kho dự trữ trong tuần kết thúc vào ngày 16 tháng 8. Nếu đúng, đây sẽ là lần thứ bảy lượng dầu thô dự trữ của Mỹ giảm trong tám tuần qua. Có 6,1 triệu thùng dầu được rút ra trong cùng tuần năm ngoái và mức giảm trung bình là 3,4 triệu thùng trong năm năm qua (2019-2023).
Kim loại quý: Giá vàng tăng lên mức cao kỷ lục, vượt ngưỡng 2.500 USD/ounce, do đồng USD suy yếu và các nhà đầu tư tin tưởng rằng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ cắt giảm lãi suất trong tháng 9/2024.
Kết thúc phiên, giá vàng giao ngay tăng 0,3% lên 2.510,35 USD/ounce, sau khi đạt mức cao kỷ lục 2.531,6 USD/ounce lúc đầu phiên giao dịch; vàng giao sau tăng 0,4% lên 2.550,6 USD/ounce.
Giá bạc giao ngay trong phiên này giảm 0,2% xuống 29,42 USD/ounce, bạch kim giảm 0,5% xuống 949,05 USD và palladium giảm 0,5% xuống 927,00 USD.
Chỉ số đồng USD giảm xuống mức thấp nhất 7 tháng khiến vàng trở nên đắt hơn khi mua bằng tiền tệ khác. Lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm cũng giảm.
"Các động lực chính thúc đẩy giá vàng tăng là nhu cầu đầu tư tài chính, đặc biệt là khi hoạt động mua tại các quỹ ETF tăng lên và tâm lý chung được cải thiện khi kỳ vọng chu kỳ nới lỏng của Fed sẽ bắt đầu vào tháng 9", Aakash Doshi, giám đốc hàng hóa khu vực Bắc Mỹ của Citi Research cho biết. Ông thêm rằng giá vàng có thể đạt 3.000 USD/ounce vào giữa năm 2025 và 2.600 USD/ounce vào cuối năm 2024.
Lượng giá trị vàng nắm giữ của SPDR Gold Trust GLD, quỹ giao dịch trao đổi được hỗ trợ bằng vàng lớn nhất thế giới, hôm thứ Hai đã tăng lên mức cao nhất trong bảy tháng, là 859 tấn.
Theo Công cụ FedWatch của CME, thị trường dự đoán khoảng 71,5% khả năng Fed sẽ cắt giảm lãi suất 25 điểm cơ bản vào tháng 9. Các nhà giao dịch sẽ theo dõi chặt chẽ biên bản cuộc họp chính sách tháng 7 của Fed, công bố vào thứ Tư, và bài phát biểu quan trọng của Chủ tịch Fed Jerome Powell tại hội nghị chuyên đề Jackson Hole vào cuối tuần để biết thêm thông tin về việc cắt giảm lãi suất.
Vàng, vốn có xu hướng phát triển mạnh trong môi trường lãi suất thấp, đã tăng hơn 20% trong năm nay và đang hướng đến năm tốt nhất kể từ năm 2020.
Kim loại công nghiệp: Giá nhôm tăng lên mức cao nhất 5 tuần, do tình trạng thiếu hụt alumina (nguyên liệu thô để sản xuất ra kim loại này) tại Trung Quốc và đồng USD giảm thúc đẩy hoạt động mua vào.
Kết thúc phiên, giá nhôm giao sau 3 tháng trên sàn London tăng 1,6% lên 2.483 USD/tấn, trong phiên có lúc đạt 2.506 USD/tấn, mức cao nhất kể từ ngày 11/7/2024. Giá alumina của Trung Quốc đạt mức cao nhất gần 3 tháng do nhu cầu tăng và nguồn cung hạn chế.
Góp phần làm tăng giá nhôm là lượng hàng tồn kho nhôm tại các kho do Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải (ShFE) giám sát đã giảm 30% trong ba tuần qua do lợi nhuận liên quan đến việc sản xuất nhôm nguyên chất đã cải thiện.
"Đối với nhôm, vấn đề chính là tình trạng thiếu hụt nhôm và câu chuyện sản xuất của Trung Quốc", "Yếu tố vĩ mô tác động là đồng USD và quyết định của Fed", một nhà giao dịch nhôm cho biết.
Kỳ vọng Fed sẽ cắt giảm lãi suất tại cuộc họp vào tháng 9 đã gây áp lực lên đồng tiền của Mỹ, khiến USD giảm, dẫn tới những kim loại có giá bằng đô la sẽ rẻ hơn đối với những người nắm giữ các loại tiền tệ khác.
Đối với những kim loại cơ bản khác, giá đồng trên sàn London giảm 0,7% xuống 9.188,5 USD/tấn, chịu áp lực giảm bởi tồn trữ tại London tăng lên mức cao nhất 5 năm (320.050 tấn). Lượng đồng tồn kho của sàn LME tăng lên mức cao nhất trong năm năm, là 320.050 tấn, với dữ liệu của LME vào ngày 19 tháng 8 cho thấy lượng hàng tồn kho tại Đài Loan tăng mạnh.
Giá niken trên sàn LME phiên này tăng 1,5% lên 16.915 USD, kẽm tăng 0,3% lên 2.833,8 USD, thiếc giảm 1,5% xuống 32.090 USD và chì tăng 0,5% lên 2.048,5 USD.
Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên tăng do giá thép tại Trung Quốc tiếp tục tăng. Tuy nhiên, lo ngại về triển vọng nhu cầu do thiếu các biện pháp kích thích mạnh mẽ đã hạn chế đà tăng.
Kết thúc phiên, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn Đại Liên tăng 1,21% lên 710,5 CNY (99,45 USD)/tấn, là phiên thứ 2 liên tiếp tăng. Trong khi đó, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn Singapore giảm 1,11% xuống 93,95 USD/tấn, sau khi tăng trong phiên trước đó và đồng USD hồi phục nhẹ.
Hầu hết các chuẩn thép trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải tiếp tục kéo dài đà tăng trừ phiên trước, kéo theo giá quặng sắt tăng. Theo đó, giá thép cây trên sàn Thượng Hải tăng 1,93%, thép cuộn cán nóng tăng 1,97%, thép cuộn tăng 1,21%, trong khi thép không gỉ giảm 0,4%.
Nông sản: Giá đậu tương và lúa mì Mỹ tăng do nhiều dấu hiệu cho thấy nhu cầu tăng. Trong khi đó, giá ngô giảm. Trên sàn Chicago, giá lúa mì tăng 4-1/4 US cent lên 5,56-1/2 USD/bushel; đậu tương ở mức 9,76 USD/bushel, trong khi ngô giảm 2-1/4 US cent xuống 3,98 USD/bushel.
Giá đường thô giảm xuống mức thấp nhất gần 2 năm do hoạt động bán mạnh. Kết thúc phiên, đường thô kỳ hạn tháng 10/2024 trên sàn ICE giảm 0,45 US cent tương đương 2,5% xuống 17,57 US cent/lb – thấp nhất kể từ tháng 10/2022; đường trắng kỳ hạn tháng 10/2024 trên sàn London giảm 2,2% xuống 502,5 USD/tấn.
Các đại lý cho biết lo ngại về nhu cầu chậm chạp từ Trung Quốc, một trong những nước nhập khẩu đường lớn nhất thế giới, và sự yếu kém gần đây của giá dầu thô đã gây áp lực giảm giá.
Trong khi đó, thời tiết khô hạn ở Brazil sẽ thúc đẩy sản lượng trong bối cảnh nước này đẩy nhanh quá trình thu hoạch, mặc dù có nguy cơ ảnh hưởng đến năng suất vào cuối vụ. USDA đã nâng dự báo về lượng đường nhập khẩu của Ai Cập vì sản lượng trong nước không tăng.
Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 11/2024 trên sàn London tăng 143 USD tương đương 3,2% lên 4.619 USD/tấn, sau khi đạt mức cao nhất 1 tháng (4.656 USD/tấn); cà phê arabica kỳ hạn tháng 12/2024 trên sàn ICE tăng 1,7% lên 2,485 USD/lb, được thúc đẩy bởi lo ngại thời tiết khô tại Brazil ảnh hưởng đến năng suất cây trồng.
Xuất khẩu từ Việt Nam vẫn diễn ra chậm chạp, trong khi có thông tin cho rằng nông dân ở Indonesia đang giữ hàng tồn kho với hy vọng giá có thể tăng thêm.
Giá cao su trên thị trường Nhật Bản tăng lên mức cao nhất 6 tuần theo xu hướng giá cao su tổng hợp trong bối cảnh nguồn cung cao su thiên nhiên toàn cầu gián đoạn và đồng JPY giảm giá.
Kết thúc phiên này, cao su kỳ hạn tháng 1/2025 trên sàn Osaka (OSE) tăng 4,5 JPY tương đương 1,38% lên 331 JPY (2,25 USD)/kg; trong phiên có lúc đạt 332 JPY/kg – cao nhất kể từ ngày 4/7/2024. Cao su kỳ hạn tháng 1/2025 trên sàn Thượng Hải tăng 175 CNY tương đương 1,09% lên 16.325 CNY (2.285,13 USD)/tấn; cao su kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn Singapore tăng 0,4% lên 174,8 US cent/kg.
Nhà cung cấp dữ liệu hàng hóa Trung Quốc Longzhong Information cho biết sản lượng cao su nguyên liệu vẫn ở mức thấp, trong khi hoạt động bán hàng dự trữ đã bắt đầu, thể hiện ở việc lượng lưu kho tại Thanh Đảo đã giảm đáng kể.
Giá hàng hóa thế giới:
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
74,04
|
-0,33
|
-0,44%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
77,02
|
-0,18
|
-0,23%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
224,39
|
-1,24
|
-0,55%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,20
|
+0,00
|
+0,09%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
226,25
|
-0,07
|
-0,03%
|
Vàng (Comex)
|
USD/ounce
|
2.556,30
|
+5,70
|
+0,22%
|
Vàng giao ngay
|
USD/ounce
|
2.518,12
|
+4,13
|
+0,16%
|
Bạc (Comex)
|
USD/ounce
|
29,98
|
+0,03
|
+0,09%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/ounce
|
955,85
|
+3,59
|
+0,38%
|
Đồng (Comex)
|
US cent/lb
|
420,10
|
0,00
|
0,00%
|
Đồng (LME)
|
USD/tấn
|
9.204,00
|
-48,00
|
-0,52%
|
Nhôm (LME)
|
USD/tấn
|
2.502,00
|
+56,50
|
+2,31%
|
Kẽm (LME)
|
USD/tấn
|
2.805,00
|
+18,00
|
+0,65%
|
Thiếc (LME)
|
USD/tấn
|
32.276,00
|
-299,00
|
-0,92%
|
Ngô (CBOT)
|
US cent/bushel
|
399,00
|
+1,00
|
+0,25%
|
Lúa mì (CBOT)
|
US cent/bushel
|
559,00
|
+2,50
|
+0,45%
|
Lúa mạch (CBOT)
|
US cent/bushel
|
320,50
|
+2,00
|
+0,63%
|
Gạo thô (CBOT)
|
USD/cwt
|
14,94
|
-0,02
|
-0,13%
|
Đậu tương (CBOT)
|
US cent/bushel
|
977,00
|
+1,00
|
+0,10%
|
Khô đậu tương (CBOT)
|
USD/tấn
|
309,20
|
+0,90
|
+0,29%
|
Dầu đậu tương (CBOT)
|
US cent/lb
|
39,25
|
+0,05
|
+0,13%
|
Hạt cải (ICE)
|
CAD/tấn
|
568,10
|
+3,00
|
+0,53%
|
Cacao (ICE)
|
USD/tấn
|
7.640,00
|
+302,00
|
+4,12%
|
Cà phê (ICE)
|
US cent/lb
|
248,50
|
+4,15
|
+1,70%
|
Đường thô (ICE)
|
US cent/lb
|
17,57
|
-0,45
|
-2,50%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh (ICE)
|
US cent/lb
|
453,15
|
+2,55
|
+0,57%
|
Bông (ICE)
|
US cent/lb
|
69,33
|
-0,01
|
-0,01%
|
Lông cừu (ASX)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ (CME)
|
USD/1000 board feet
|
--
|
--
|
--
|
Cao su Singapore
|
US cent/kg
|
178,30
|
+0,40
|
+0,22%
|
Ethanol (CME)
|
USD/gallon
|
2,16
|
0,00
|
0,00%
|