Năng lượng: Giá dầu giảm 1% do lạm phát ở Mỹ kéo dài có vẻ sẽ khiến lãi suất được ở mức cao trong thời gian dài, gây áp lực đối với nhu cầu nhiên liệu.
Kết thúc phiên, dầu thô Brent giảm 83 US cent, tương đương 1%, xuống 82,88 USD/thùng; dầu thô ngọt nhẹ Mỹ (WTI) kỳ hạn tháng 6 (đáo hạn ngày 21/5) giảm 54 cent, tương đương 0,7%, xuống 79,26 USD/thùng; dầu WTI kỳ hạn tháng 7 giảm 64 US cent xuống 78,66 USD.
Cấu trúc của hợp đồng Brent đang suy yếu cho thấy thị trường yếu hơn và nguồn cung mạnh.
Chênh lệch hợp đồng Brent giao sau 1 tháng so với hợp đồng tháng thứ hai thu hẹp xuống còn 10 cent, mức thấp nhất kể từ tháng Giêng.
Chi phí vay cao có thể làm chậm tăng trưởng kinh tế và gây áp lực đối với nhu cầu dầu.
Phil Flynn, nhà phân tích tại Price Futures Group, cho biết: “Thị trường rất tập trung vào nhu cầu xăng ở Mỹ vì có dấu hiệu cho thấy người tiêu dùng đang giảm tiêu thụ vì lạm phát. Trừ khi điều đó thay đổi, thị trường đang cho thấy mọi thứ có thể hơi ảm đạm”.
Trước kỳ nghỉ Lễ Tưởng niệm vào cuối tuần này, khởi đầu mùa lái xe cao điểm ở Mỹ - mùa hè, giá xăng bán lẻ hôm thứ Hai đã giảm tuần thứ tư liên tiếp xuống còn 3,58 USD/gallon, Cơ quan Thông tin Năng lượng (EIA) cho biết trong bản cập nhật nhiên liệu xăng và dầu diesel.
Bộ Năng lượng hôm thứ Ba cho biết Mỹ sẽ bán gần 1 triệu thùng xăng tại kho dự trữ ở các bang phía đông bắc, với thời hạn đấu thầu vào ngày 28 tháng 5.
Theo EIA, giá dầu diesel tại Mỹ hôm thứ Hai cũng giảm 5,9 cent xuống 3,89 USD/gallon. Diesel là sản phẩm tinh chế quan trọng cho cả lĩnh vực công nghiệp và giao thông vận tải.
Các nhà đầu tư đang chờ đợi biên bản cuộc họp chính sách cuối cùng của Fed - vào thứ Tư, cũng như dữ liệu tồn kho dầu hàng tuần của Mỹ từ EIA, cũng vào thứ Tư.
Tim Snyder, chuyên gia kinh tế tại Matador, cho biết: “Không có gì trên thị trường hiện tại có thể đẩy giá lên cao hơn. Nếu chúng ta thấy tồn kho giảm nhẹ vào ngày mai, điều đó có thể giúp đẩy giá trở lại mức 78,50-80 USD/thùng”.
Theo các nguồn tin thị trường trích dẫn số liệu của Viện Dầu khí Mỹ (API) hôm thứ Ba, tồn kho dầu thô và xăng của Mỹ tăng trong tuần trước, trong khi sản phẩm chưng cất giảm.
Các số liệu của API cho thấy tồn kho dầu thô tăng 2,48 triệu thùng trong tuần kết thúc vào ngày 17 tháng 5; tn kho xăng tăng 2,1 triệu thùng và sản phẩm chưng cất giảm 320.000 thùng.
Hai nhà hoạch định chính sách của Cục Dự trữ Liên bang hôm thứ Ba cho biết ngân hàng trung ương Mỹ nên đợi thêm vài tháng nữa để đảm bảo rằng lạm phát quay trở lại mục tiêu 2% trước khi bắt đầu cắt giảm lãi suất.
Triển vọng kinh tế ở châu Âu tích cực hơn. Chủ tịch Ngân hàng Trung ương Châu Âu Christine Lagarde cho biết trong một cuộc phỏng vấn rằng bà "thực sự tin tưởng" rằng lạm phát khu vực đồng euro đang được kiểm soát. ECB gần như đã hứa sẽ cắt giảm lãi suất vào ngày 6 tháng 6, vì vậy các nhà hoạch định chính sách đã chuyển sự chú ý của họ sang việc tranh luận về việc lãi suất sẽ đi về đâu sau đó.
Thị trường dường như không bị ảnh hưởng nhiều bởi cái chết của Tổng thống Iran Ebrahim Raisi, một người có đường lối cứng rắn và có tiềm năng kế vị Lãnh đạo tối cao Ayatollah Ali Khamenei, trong một vụ tai nạn trực thăng vào Chủ nhật.
Kim loại quý: Giá vàng giảm khỏi mức cao kỷ lục của phiên liền trước do đồng USD vững, song vẫn ở mức 2.400 USD/ounce, nhờ nhu cầu trú ẩn an toàn và triển vọng lãi suất của Mỹ sẽ giảm trong năm nay.
Kết thúc phiên, giá vàng giao ngay giảm 0,2% xuống 2.420,49 USD/ounce do chi số đồng USD tăng khiến vàng trở nên đắt hơn khi mua bằng tiền tệ khác; vàng kỳ hạn tháng 6/2024 giảm 0,5% xuống 2.425,9 USD/ounce.
Nikos Kavalis, giám đốc điều hành tại Metals Focus cho biết, khi vàng đạt mức cao kỷ lục 2.449,89 USD vào thứ Hai, “bức tranh chung không thực sự thay đổi (kể từ tháng 3)… đó chỉ là bối cảnh môi trường địa chính trị và kinh tế vĩ mô toàn cầu rất hấp dẫn đối với vàng”.
Những lo ngại về khoản nợ chính phủ Mỹ đang tăng nhanh khi Cục Dự trữ Liên bang cố gắng hạ cánh nhẹ nhàng là động lực thúc đẩy một số nhà đầu tư.
Dữ liệu gần đây cho thấy lạm phát ở Mỹ đã tiếp tục xu hướng giảm, tuy nhiên một số nhà hoạch định chính sách của Fed vẫn thận trọng trong việc cắt giảm lãi suất quá sớm nhưng loại trừ sự cần thiết phải tăng lãi suất. FEDWATCH
Ở những nơi khác ở Trung Quốc, nơi đang nỗ lực ổn định lĩnh vực bất động sản đang bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng, các nhà đầu tư có xu hướng đầu tư vào vàng trú ẩn an toàn.
Bản thân Trung Quốc đã chính thức tích trữ vàng thỏi vào quý đầu tiên của năm 2024.
Nhà phân tích Rhona O'Connell của StoneX cho biết: “Vai trò chính của vàng là bù đắp rủi ro, cho dù là tài chính, địa chính trị hay biến động. Điều đó không phải là mới, nhưng hiện tại những lý do này càng được củng cố”.
Theo Hội đồng Vàng Thế giới, các quỹ ETF trên toàn cầu đã chứng kiến dòng vốn ròng 1 tỷ USD chảy vào trong tuần trước - dòng vốn vào hàng tuần lớn nhất kể từ tháng 10 năm 2023.
“Ngày càng có nhiều nhà đầu tư, bao gồm nhiều nhà đầu tư chính thống, như các quỹ vĩ mô và những đơn vị tương tự, đầu tư vào vàng. Họ đã bỏ lỡ một phần của đợt phục hồi vừa qua và nay muốn tham gia,” Kavalis nói và cho biết thêm rằng thị trường đã chín muồi để điều chỉnh trước khi giá có thể tăng thêm.
Các nhà đầu tư sẽ theo dõi biên bản cuộc họp chính sách gần đây nhất của Fed vào thứ Tư.
Về những kim loại quý khác, giá bạc tăng 0,2% lên 31,9 USD/ounce sau khi đạt mức cao nhất hơn 11 năm trong phiên liền trước; bạch kim tăng 0,7% lên 1.054,00 USD mỗi ounce và palladium giảm 0,1% xuống 1.025,43 USD mỗi ounce.
Kim loại công nghiệp: Giá nhôm tăng mạnh nhất trong vòng 4 tháng, đạt mức cao nhất gần 2 năm do lo ngại về nguồn cung và sự phục hồi mới đây của giá đồng.
Kết thúc phiên, giá nhôm giao sau 3 tháng trên sàn London tăng 3,1% lên 2.710,5 USD/tấn, sau khi đạt 2.765,5 USD/tấn – cao nhất kể từ đầu tháng 6/2022.
Nhà tư vấn Edward Meir của Marex cho biết: “Nhôm có xu hướng tụt hậu so với đồng khi giá kim loại cơ bản tăng mạnh, nhưng cuối cùng thì cũng đến lúc nhôm tăng giá”.
Đồng đã đạt kỷ lục 11.104,50 USD vào thứ Hai, được kích hoạt bởi hoạt động mua bán khống đã tạo động lực cho các nhà đầu cơ và các quỹ đặt cược vào khả năng thiếu hụt kim loại này về dài hạn trong quá trình chuyển đổi sang năng lượng xanh.
Được sử dụng chủ yếu trong ngành năng lượng, xây dựng và vận tải, giá nhôm được thúc đẩy bởi lo ngại về nguồn cung sau khi Rio Tinto tuyên bố bất khả kháng đối với hợp đồng xuất khẩu alumina của bên thứ 3 từ nhà máy tinh luyện của họ tại Queensland, Australia. Alumina là sản phẩm trung gian giữa bauxite và nhôm.
Ông Meir cho biết: “Các nhà sản xuất alumina khác có thể gặp khó khăn trong việc thúc đẩy sản lượng quá nhanh và do đó chúng tôi có thể thấy giá cả alumina và nhôm tăng thêm trong những ngày tới”. Tuy nhiên, ông nói thêm bauxite không thiếu nên nguyên liệu alumina luôn sẵn có.
Tồn kho nhôm có bảo hành tại các kho đăng ký với sàn LME giảm xuống mức thấp nhất trong hai tuần là 556.100 tấn.
Giá đồng cuối phiên vừa qua giảm 0,7% xuống 10.809 USD/tấn. Trong khi đó, giá kẽm giảm 0,1% xuống 3.109,5 USD/tấn, sau khi đạt 3.185 USD/tấn – cao nhất kể từ tháng 2/2023. Giá chì giảm 0,4% xuống 2.332 USD, thiếc giảm 0,6% xuống 34.200 USD và niken CMNI3 giảm 2,1% xuống 21.120 USD.
Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên cũng tăng do nhu cầu ổn định và triển vọng tại nước tiêu thụ hàng đầu thế giới – Trung Quốc – được cải thiện, đã hỗ trợ thị trường.
Hợp đồng quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn Đại Liên tăng 1,7% lên 908 CNY (125,47 USD)/tấn; quặng sắt kỳ hạn tháng 6/2024 trên sàn Singapore tăng 1,9% lên 120,4 USD/tấn.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây tăng 0,4%, thép cuộn cán nóng tăng 0,3% và thép không gỉ tăng 0,4%, trong khi thép cuộn giảm 0,1%.
Trung Quốc đã công bố các bước hỗ trợ đối với lĩnh vực bất động sản đang gặp khủng hoảng, trong đó ngân hàng trung ương tạo điều kiện cấp thêm 1 nghìn tỉ CNY (138 tỉ USD) và nới lỏng các quy định thế chấp cùng nhiều chính sách khác.
Atilla Widnell, giám đốc điều hành tại Navigate Commodities cho biết: “Vẫn còn rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến giá quặng sắt nói riêng và kim loại công nghiệp nói chung của Trung Quốc, vốn được thúc đẩy bởi sự lạc quan và tâm lý tích cực xung quanh các gói hỗ trợ liên quan đến lĩnh vực nhà ở gần đây”.
Tuy nhiên, Widnell nói thêm rằng “mặc dù các biện pháp này hỗ trợ giá nhà và sẽ giải quyết sự mất mát về tài sản cũng như giá trị do lượng hàng tồn kho dư thừa tạo ra, chúng tôi không tin rằng đây sẽ là viên đạn bạc cho hoạt động xây dựng và nhu cầu thép liên quan”.
Biên lợi nhuận của các nhà máy thép Trung Quốc cũng vẫn yếu, gây áp lực lên giá nguyên liệu thô sản xuất thép, ANZ Research cho biết trong một lưu ý.
Nông sản: Giá lúa mì và cà phê tăng, đường và cao su giảm
Giá lúa mì Mỹ đạt mức cao nhất kể từ tháng 7/2023 do sương giá tại Nga – nước xuất khẩu lúa mì hàng đầu thế giới - và sản lượng vụ thu hoạch tại Mỹ giảm.
Kết thúc phiên, trên sàn Chicago, giá lúa mì kỳ hạn tháng 7/2024 tăng 8-3/4 US cent lên 6,97-1/2 USD/bushel. Giá đậu tương kỳ hạn tháng 7/2024 giảm 11-3/4 US cent xuống 12,36-1/4 USD/bushel và giá ngô giao cùng kỳ hạn giảm 2-1/2 US cent xuống 4,58 USD/bushel.
Công ty tư vấn nông nghiệp IKAR đã hạ dự báo sản lượng lúa mì Nga xuống 83,5 triệu tấn từ mức 86 triệu tấn và giảm dự báo xuất khẩu lúa mì Nga năm 2024/25 xuống 45 triệu tấn từ mức 47 triệu tấn.
Tại Ukraine, nước xuất khẩu lúa mì và ngô lớn, cơ quan dự báo thời tiết quốc gia cho biết những đợt sương giá gần đây không gây thiệt hại đáng kể cho cây ngũ cốc và hạt có dầu.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 7/2024 trên sàn ICE giảm 0,12 US cent tương đương 0,6% xuống 18,56 US cent/lb; đường trắng kỳ hạn tháng 8/2024 trên sàn London giảm 1,2% xuống 544,4 USD/tấn.
Các đại lý cho biết vụ thu hoạch mía ở Trung Nam Brazil khởi đầu thuận lợi đã khiến thị trường đường rơi vào thế phòng thủ mặc dù vẫn còn lo ngại về thời tiết khô hạn ở quốc gia sản xuất đường hàng đầu thế giới này.
Nhà kinh doanh đường Wilmar cho biết họ tin rằng sản lượng đường ở Trung Quốc có thể sẽ vượt mức 11 triệu tấn mà chính phủ dự kiến, dựa trên diện tích trồng mía tăng.
Gá cà phê kỳ tăng mạnh do hoạt động mua đầu cơ tích cực, một phần vì lo ngại về chất lượng và sự chậm trễ giao hàng tại nhà sản xuất hàng đầu thế giới – Brazil.
Kết thúc phiên, giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 7/2024 trên sàn ICE tăng 10,5 US cent tương đương 5,1% lên 2,172 USD/lb; cà phê robusta kỳ hạn tháng 7/2024 trên sàn London tăng 6,7% lên 3.734 USD/tấn.
Việc vận chuyển cà phê đến các cảng Brazil bị chậm trễ do thiếu container và thời tiết hầu như vẫn khô hạn ở các vùng trồng cà phê, điều này có thể bắt đầu ảnh hưởng đến triển vọng vụ mùa năm 2025.
Sản lượng cà phê của Colombia niên vụ 2024/25 dự kiến đạt 12,4 triệu bao, tăng so với 12,2 triệu bao trong niên vụ trước, Bộ Nông nghiệp Mỹ cho biết.
Các nhà môi giới cho biết một nhà kinh doanh cà phê lớn đã điều chỉnh giảm dự báo sản lượng vụ mùa của Việt Nam do tình trạng khô hạn nghiêm trọng tháng 4 có thể ảnh hưởng đến việc cây ra hoa.
Giá cao su tại Nhật Bản giảm, theo xu hướng giá dầu, song đồng JPY suy yếu đã hạn chế đà giảm.
Kết thúc phiên, cao su kỳ hạn tháng 10/2024 trên sàn Osaka (OSE) giảm 3,9 JPY tương đương 1,19% xuống 325 JPY (2,08 USD)/kg; cao su kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn Thượng Hải giảm 50 CNY xuống 14.725 CNY (2.034,57 USD)/tấn; cao su kỳ hạn tháng 6/2024 trên sàn Singapore giảm 0,2% xuống 170,2 US cent/kg.
Công ty tư vấn Huatai Futures cho biết, bất chấp dự báo thời tiết dự đoán có mưa ở Vân Nam, Trung Quốc, lượng mưa thực tế rất nhỏ, dẫn đến hạn hán nhẹ ở các khu vực sản xuất cao su của Vân Nam.
Jom Jacob, nhà phân tích trưởng của công ty phân tích What Next Rubber có trụ sở tại Ấn Độ cho biết, lượng cao su tự nhiên nguyên sinh nhập khẩu thấp tại các thị trường địa phương khác nhau ở Thái Lan đã đẩy giá cao su hàng thực tăng cao.
Cao su tấm hun khói cao cấp xuất khẩu chuẩn của Thái Lan (RSS3) phiên thứ Ba đạt 88,59 baht (2,44 USD)/kg, cao hơn 0,6% so với thứ Hai.
Giá hàng hóa thế giới
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
79,26
|
-0,54
|
-0,68%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
82,38
|
-0,50
|
-0,60%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
249,86
|
-1,14
|
-0,45%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,64
|
-0,04
|
-1,31%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
245,85
|
-0,38
|
-0,15%
|
Vàng (Comex)
|
USD/ounce
|
2.448,30
|
-0,80
|
-0,03%
|
Vàng giao ngay
|
USD/ounce
|
2.420,38
|
-0,67
|
-0,03%
|
Bạc (Comex)
|
USD/ounce
|
32,28
|
+0,20
|
+0,61%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/ounce
|
1.053,78
|
-1,26
|
-0,12%
|
Đồng (Comex)
|
US cent/lb
|
511,40
|
+0,80
|
+0,16%
|
Đồng (LME)
|
USD/tấn
|
10.859,00
|
-30,00
|
-0,28%
|
Nhôm (LME)
|
USD/tấn
|
2.725,50
|
+95,50
|
+3,63%
|
Kẽm (LME)
|
USD/tấn
|
3.139,50
|
+25,50
|
+0,82%
|
Thiếc (LME)
|
USD/tấn
|
34.324,00
|
-144,00
|
-0,42%
|
Ngô (CBOT)
|
US cent/bushel
|
460,75
|
+2,75
|
+0,60%
|
Lúa mì (CBOT)
|
US cent/bushel
|
707,25
|
+9,75
|
+1,40%
|
Lúa mạch (CBOT)
|
US cent/bushel
|
366,50
|
+4,50
|
+1,24%
|
Gạo thô (CBOT)
|
USD/cwt
|
18,62
|
+0,03
|
+0,16%
|
Đậu tương (CBOT)
|
US cent/bushel
|
1.238,25
|
+2,00
|
+0,16%
|
Khô đậu tương (CBOT)
|
USD/tấn
|
372,60
|
+0,30
|
+0,08%
|
Dầu đậu tương (CBOT)
|
US cent/lb
|
46,00
|
+0,19
|
+0,41%
|
Hạt cải (ICE)
|
CAD/tấn
|
665,00
|
-0,20
|
-0,03%
|
Cacao (ICE)
|
USD/tấn
|
7.394,00
|
+178,00
|
+2,47%
|
Cà phê (ICE)
|
US cent/lb
|
217,20
|
+10,50
|
+5,08%
|
Đường thô (ICE)
|
US cent/lb
|
18,56
|
-0,12
|
-0,64%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh (ICE)
|
US cent/lb
|
455,95
|
+10,00
|
+2,24%
|
Bông (ICE)
|
US cent/lb
|
77,52
|
+1,14
|
+1,49%
|
Lông cừu (ASX)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ (CME)
|
USD/1000 board feet
|
--
|
--
|
--
|
Cao su Singapore
|
US cent/kg
|
170,60
|
-0,90
|
-0,52%
|
Ethanol (CME)
|
USD/gallon
|
2,16
|
0,00
|
0,00%
|