Năng lượng: Giá dầu giảm phiên thứ 4 liên tiếp, chạm mức thấp nhất nhiều tháng do triển vọng lãi suất cao trong thời gian dài, làm dấy lên lo ngại về tăng trưởng nhu cầu dầu tại thị trường tiêu thụ năng lượng lớn nhất thế giới.
Chốt phiên giao dịch ngày 23/5, dầu thô Brent giảm 54 US cent, tương đương 0,7%, xuống 81,36 USD/thùng – thấp nhất kể từ tháng 1/2024; dầu ngọt nhẹ của Mỹ (WTI) giảm 70 US cent, tương đương 0,9%, xuống 76,87 USD/thùng, thấp nhất trong vòng 3 tháng.
Dữ liệu của S&P Global cho thấy hoạt động kinh doanh của Mỹ tháng này đang tăng tốc, nhưng các nhà sản xuất cũng báo cáo nhiều chi phí đầu vào tăng vọt, cho thấy lạm phát hàng hóa sẽ tăng trong những tháng tới.
Biên bản cuộc họp chính sách mới nhất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) công bố hôm thứ Tư cho thấy các nhà hoạch định chính sách vẫn còn nghi ngờ liệu lãi suất hiện tại có đủ cao để chế ngự lạm phát vẫn đang dai dẳng hay không. Lãi suất cao làm tăng chi phí vay tiền, có thể làm chậm hoạt động kinh tế và làm giảm nhu cầu dầu.
Một yếu tố nữa cũng gây áp lực lên thị trường. Theo Cơ quan Thông tin Năng lượng (EIA), tồn kho dầu thô của Mỹ đã tăng 1,8 triệu thùng trong tuần trước, so với mức ước tính là giảm 2,5 triệu thùng.
Tuy nhiên, EIA báo cáo nhu cầu xăng của Mỹ ở mức cao nhất kể từ tháng 11, giúp hỗ trợ cho thị trường năng lượng trước kỳ nghỉ cuối tuần cùng với Ngày Tưởng niệm, được coi là thời điểm bắt đầu mùa lái xe mùa hè ở Mỹ. Tiêu thụ xăng của Mỹ chiếm khoảng 9% nhu cầu dầu toàn cầu.
Nhà phân tích Bob Yawger của Mizuho cho biết: “Báo cáo của EIA cho thấy sự khả quan trên thị trường xăng dầu, mọi thứ đều có chiều hướng tích cực”. “Tuy nhiên, một báo cáo không tạo ra xu hướng, vì vậy mọi người sẽ tiếp tục theo dõi và nhận định về những gì sẽ xảy ra trong tương lai.”
Các nhà đầu tư cũng đang hướng tới cuộc họp ngày 1 tháng 6 của Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ và các đồng minh, gọi chung là OPEC+, nơi nhóm sẽ quyết định chính sách sản lượng của mình.
Nga cho biết sản lượng tháng 4 của họ đã vượt quá hạn ngạch sản xuất theo cam kết của OPEC+ vì "lý do kỹ thuật" và sẽ sớm trình lên Ban thư ký OPEC kế hoạch bù đắp cho sai sót này, Bộ Năng lượng Nga cho biết vào cuối ngày thứ Tư.
Andrew Lipow, chủ tịch của Hiệp hội Dầu Lipow có trụ sở tại Houston cho biết, việc giá dầu thô suy yếu gần đây làm tăng khả năng OPEC + sẽ duy trì các hạn chế sản xuất hiện tại, ít nhất là cho đến cuối tháng 9.
Năng lượng: Giá vàng giảm xuống mức thấp nhất hơn 1 tuần, là phiên thứ 3 liên tiếp giảm do các nhà đầu tư ngày càng lo ngại về thời điểm Fed cắt giảm lãi suất và hoạt động kinh doanh của Mỹ tăng mạnh.
Kết thúc phiên giao dịch, giá vàng giao ngay giảm 1,8% xuống 2.336,39 USD/ounce, mức thấp nhất kể từ ngày 13/5/2024; vàng kỳ hạn tháng 6/2024 giảm 2,3% xuống 2.337,2 USD/ounce. Giá vàng đã đạt mức cao kỷ lục (2.449,89 USD/ounce) trong phiên ngày 20/5/2024. So với đầu năm, giá hiện đã tăng 14%.
Giá bạc giao ngay giảm 1,8% xuống 30,22 USD. Sự phục hồi gần đây của giá vàng và đồng đã đẩy giá bạc lên 32,5 USD, mức cao nhất trong 11 năm, vào đầu tuần này.
Làm cho vàng trở nên kém hấp dẫn hơn, đồng USD đã giảm do hoạt động kinh doanh của Mỹ tăng tốc lên mức cao nhất trong hơn hai năm vào tháng 5, cho thấy tăng trưởng kinh tế trong nửa quý hai đã phục hồi.
Daniel Ghali, chiến lược gia hàng hóa tại TD Securities, cho biết đồng đô la tăng giá và triển vọng lãi suất của Fed đã thúc đẩy một đợt bán chốt lời. Mặc dù phản ứng chính sách hiện nay sẽ "liên quan đến việc duy trì" lãi suất ở mức hiện tại, nhưng biên bản mới nhất của Fed cho thấy họ đã bàn bạc về khả năng tăng lãi suất.
“Các nhà đầu tư quan tâm đến triển vọng chính sách của Fed thực ra không quan tâm nhiều đến vàng. Họ đã bỏ lỡ đợt phục hồi và do đó, không có nhiều vàng để bán. Vì vậy, mặc dù chúng tôi cho rằng giá vàng đang điều chỉnh ở mức hiện tại, nhưng sẽ không giảm nhiều”, ông Ghali nói.
UBS đã nâng dự báo giá vàng lên 2.600 USD/oz vào cuối năm 2024 và khuyến nghị mua khi giá giảm xuống mức khoảng 2.300 USD/oz hoặc thấp hơn, trích dẫn một loạt dữ liệu kinh tế Mỹ trong tháng 4 trở nên yêu đi, nhu cầu vàng của ngân hàng trung ương được điều chỉnh tăng và những bất ổn địa chính trị đang diễn ra.
Trong khi đó, nhập khẩu vào Ấn Độ, nước tiêu thụ vàng lớn thứ hai thế giới, có thể giảm gần 1/5 vào năm 2024 do giá cao thúc đẩy người tiêu dùng bán lẻ đổi đồ trang sức cũ lấy đồ mới.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng giảm phiên thứ 3 liên tiếp do hoạt động bán chốt lời và người tiêu dùng không mua ở mức cao gần kỷ lục.
Kết thúc phiên, giá đồng trên sàn London giảm 0,4% xuống 10.383 USD/tấn, trong phiên có lúc giảm xuống 10.210 USD/tấn.
Các nhà giao dịch cho biết mức hỗ trợ vững chắc của đồng vào cuối phiên là 10.200 USD. Các vị thế đặt mua - đặt cược vào giá tăng – đã giảm đi kể từ khi đạt mức cao kỷ lục 11.104,5 USD vào thứ Hai. Kể từ đó, nó đã giảm 6,5% nhưng vẫn cao hơn 20% so với hồi đầu năm.
Nhà phân tích Nitesh Shah của Wisdom Tree cho biết các quỹ đầu cơ đã "rút tiền", nhưng sẽ quay trở lại với kỳ vọng giá đồng sẽ tăng trong dài hạn.
Đồng rất quan trọng cho quá trình chuyển đổi sang điện khí hóa của thế giới do có tính dẫn điện. Kim loại này chủ yếu được sử dụng để làm dây cáp và dây điện. Nhưng mức tiêu thụ đồng vật chất vẫn chưa thể bắt kịp cơn sốt đầu cơ.
Tại Trung Quốc, quốc gia tiêu thụ kim loại hàng đầu thế giới, tồn kho đồng vẫn ở mức cao nhất trong 4 năm do nhu cầu suy yếu sau khi giá vượt quá 10.000 USD/tấn.
Một báo cáo nghiên cứu của BNP Paribas ước tính có khoảng 500.000 tấn tồn kho dây đồng chưa bán được ở Trung Quốc.
Nhóm nghiên cứu đồng quốc tế cho biết thị trường đồng tinh chế toàn cầu dư thừa 125.000 tấn trong tháng 3.
Đối với các kim loại khác, giá chì trên sàn LME đã giảm sau khi đạt mức cao nhất hai năm vào thứ Tư, kết thúc phiên giảm 0,6% xuống 2.300 USD. Giá nhôm giảm 0,7% xuống 2.619 USD/tấn, niken giảm 1% xuống 20.145 USD, kẽm giảm 0,1% xuống 3.058,5 USD và thiếc giảm 0,2% ở mức 33.440 USD.
Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên giảm theo xu hướng giá kim loại cơ bản và kim loại quý do đồng USD tăng mạnh lên.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn Đại Liên giảm 1,09% xuống 906,5 CNY (125,13 USD)/tấn; quặng sắt kỳ hạn tháng 6/2024 trên sàn Singapore giảm 1,77% xuống 119,45 USD/tấn.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây giảm 0,29%, thép cuộn cán nóng giảm 0,05%, thép không gỉ giảm 0,68% và thép cuộn giảm 4%.
Pei Hao, nhà phân tích thuộc công ty môi giới quốc tế Freight Investor Services (FIS) có trụ sở tại Thượng Hải, cho biết: “Quặng sắt cũng chịu một số tác động dây chuyền từ các kim loại cơ bản và quý khác như đồng và bạc cũng như thị trường chứng khoán sụt giảm”. Giá đồng trên sàn Thượng Hải đã giảm hơn 4%, trong khi giá bạc giảm gần 5%.
Tuy nhiên, sự sụt giảm đã bị hạn chế bởi biện pháp kích thích bất động sản mới nhất của Trung Quốc, trong đó một số thành phố đã hạ lãi suất thanh toán và cho vay thế chấp để nâng cao nhu cầu. Các nhà phân tích tại Shengda Futures cho biết: “Vẫn có kỳ vọng về sản lượng kim loại nóng tăng thêm do các nhà máy vẫn có một số lợi nhuận... nhưng việc tiêu thụ quặng sắt tại các cảng không diễn ra suôn sẻ”.
Nông sản: Giá lúa mì Mỹ tăng sau khi đạt mức cao nhất 10 tháng trong phiên trước đó, do thời tiết khô kéo dài và lo ngại về vụ thu hoạch tại Biển Đen đã hỗ trợ thị trường.
Trên sàn Chicago, giá lúa mì kỳ hạn tháng 7/2024 tăng 5 US cent lên 6,98 USD/bushel, sau khi đạt mức cao nhất kể từ tháng 7/2023 trong phiên trước đó; giá ngô kỳ hạn tháng 7/2024 tăng 2-3/4 US cent lên 4,64 USD/bushel, trong khi giá đậu tương giao cùng kỳ hạn giảm 7 US cent xuống 12,39-1/4 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 7/2024 trên sàn ICE tăng 0,03 US cent, tương đương 0,2% xuống 18,26 US cent/lb, sau khi giảm 1,8% trong phiên ngày 22/4/2024. Giá đường trắng kỳ hạn tháng 8/2024 trên sàn London giảm 0,3% xuống 539,7 USD/tấn.
Nhà máy lọc đường lớn thứ hai của Đức Nordzucker báo cáo lợi nhuận hàng năm tăng 79% do giá đường cao bù đắp cho chi phí tăng cao. Nhà sản xuất đường lớn nhất Australia Wilmar Sugar cho biết các cuộc đàm phán trong tuần này đã không giải quyết được tranh chấp về lương với công nhân, khiến việc bắt đầu chế biến mía tại các nhà máy của họ bị trì hoãn.
Hoạt động nghiền mía của nhà sản xuất hàng đầu Brazil đã bắt đầu mạnh mẽ nhưng vẫn có những lo ngại về tình trạng khô hạn kéo dài.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 7/2024 giảm 2,2% xuống 2,1565 USD/lb; cà phê robusta kỳ hạn tháng 7/2024 giảm 98 USD tương đương 2,5% xuống 3.819 USD/tấn, sau khi tăng lên mức cao nhất 3 tuần (3.994 USD/tấn) lúc đầu phiên giao dịch.
Ở Châu Á, giá cà phê tại Việt và Indonesia cùng tăng.
Cà phê nhân xô được người trồng cà phê ở Tây Nguyên bán với giá 110.000-114.500 VND (4,32-4,5 USD)/kg, tăng so với 100.400-101.500 VND/kg một tuần trước đó.
Tại Indonesia, giá cà phê robusta loại 4 (80 hạt lỗi) chào bán ở mức cộng 1.250 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 7/2024 trên sàn London, tăng so với mức cộng 1.200 USD/tấn 1 tuần trước đó.
Giá cao su tại Nhật Bản tăng phiên thứ 2 liên tiếp trong bối cảnh đồng JPY suy yếu, trong khi số liệu của các nhà máy trong nước khả quan và thị trường chứng khoán tăng mạnh đã thúc đẩy tâm lý các nhà đầu tư.
Giá cao su kỳ hạn tháng 10/2024 trên sàn Osaka (OSE) tăng 1,7 JPY tương đương 0,52% lên 327,9 JPY (2,09 USD)/kg; cao su kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn Thượng Hải tăng 55 CNY lên 14.865 CNY (2.051,93 USD)/tấn; cao su kỳ hạn tháng 6/2024 trên sàn Singapore tăng 0,8% lên 171,3 US cent/kg.
Một cuộc khảo sát kinh doanh cho thấy hoạt động của các nhà máy Nhật Bản tháng 5 bắt đầu mở rộng lần đầu tiên trong một năm, khi hoạt động sản xuất tăng tốc sau nhiều tháng suy yếu.
Văn phòng Đại diện Thương mại Mỹ cho biết một số mức tăng thuế mạnh đối với một loạt hàng nhập khẩu của Trung Quốc, bao gồm xe điện và pin, chip máy tính và các sản phẩm y tế, sẽ có hiệu lực vào ngày 1 tháng 8.
Một chuyên gia cơ quan nghiên cứu ô tô trực thuộc chính phủ nói với tờ Global Times của Trung Quốc rằng Trung Quốc nên tăng thuế nhập khẩu đối với ô tô cỡ lớn chạy bằng xăng lên 25%.
Liên đoàn Công nghiệp Thái Lan cho biết, sản xuất ô tô ở Thái Lan, trung tâm sản xuất ô tô lớn nhất Đông Nam Á, đã giảm 11,02% trong tháng 4 so với cùng kỳ năm ngoái.
Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

76,86

-0,01

-0,01%

Dầu Brent

USD/thùng

81,38

+0,02

+0,02%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

247,66

+0,72

+0,29%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,67

+0,01

+0,49%

Dầu đốt

US cent/gallon

241,52

+0,34

+0,14%

Vàng (Comex)

USD/ounce

2.356,50

-3,20

-0,14%

Vàng giao ngay

USD/ounce

2.333,67

+4,40

+0,19%

Bạc (Comex)

USD/ounce

30,56

+0,10

+0,33%

Bạch kim giao ngay

USD/ounce

1.023,60

+3,89

+0,38%

Đồng (Comex)

US cent/lb

479,15

-0,10

-0,02%

Đồng (LME)

USD/tấn

10.417,50

-1,50

-0,01%

Nhôm (LME)

USD/tấn

2.621,50

-15,00

-0,57%

Kẽm (LME)

USD/tấn

3.062,50

0,00

0,00%

Thiếc (LME)

USD/tấn

33.451,00

-59,00

-0,18%

Ngô (CBOT)

US cent/bushel

466,25

+2,25

+0,48%

Lúa mì (CBOT)

US cent/bushel

703,50

+5,50

+0,79%

Lúa mạch (CBOT)

US cent/bushel

373,00

+3,50

+0,95%

Gạo thô (CBOT)

USD/cwt

18,45

-0,04

-0,22%

Đậu tương (CBOT)

US cent/bushel

1.241,25

+2,00

+0,16%

Khô đậu tương (CBOT)

USD/tấn

378,90

+2,20

+0,58%

Dầu đậu tương (CBOT)

US cent/lb

45,13

-0,06

-0,13%

Hạt cải (ICE)

CAD/tấn

671,60

-0,40

-0,06%

Cacao (ICE)

USD/tấn

8.109,00

+573,00

+7,60%

Cà phê (ICE)

US cent/lb

215,65

-4,80

-2,18%

Đường thô (ICE)

US cent/lb

18,26

+0,03

+0,16%

Nước cam cô đặc đông lạnh (ICE)

US cent/lb

466,50

+3,10

+0,67%

Bông (ICE)

US cent/lb

81,09

-0,63

-0,77%

Lông cừu (ASX)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ (CME)

USD/1000 board feet

--

--

--

Cao su Singapore

US cent/kg

175,00

+2,40

+1,39%

Ethanol (CME)

USD/gallon

2,16

0,00

0,00%

 

 

Nguồn: Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)