Năng lượng: Giá dầu phục hồi từ mức thấp nhất trong 4 tháng, tăng 1% trong phiên vừa qua do hy vọng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ sẽ cắt giảm lãi suất vào tháng 9, át đi nỗi lo về nhu cầu sau khi dữ liệu cho thấy tồn kho dầu thô và nhiên liệu của Mỹ tăng.
Dầu thô Brent kết thúc phiên tăng 89 cent, tương đương 1,2%, lên 78,41 USD/thùng, trong khi giá dầu thô trung cấp Tây Texas của Mỹ tăng 82 cent, tương đương 1,1%, lên 74,07 USD.
Dữ liệu từ Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ cho thấy Tồn trữ dầu thô của Mỹ đã tăng 1,2 triệu thùng trong tuần tính đến ngày 31 tháng 5, so với ước tính của các nhà phân tích là giảm 2,3 triệu thùng.
Tuy nhiên, mức tăng này thấp hơn mức con số tăng 4 triệu thùng do Viện Dầu mỏ Mỹ đưa ra hôm thứ Ba.
Tồn kho xăng tăng 2,1 triệu thùng, cũng cao hơn so với dự đoán tăng 2 triệu thùng, làm tăng thêm mối lo ngại về nhu cầu khi lượng tiêu thụ nhiên liệu trong dịp nghỉ Lễ Tưởng niệm trong tuần này, theo truyền thống được coi là thời điểm bắt đầu mùa lái xe mùa hè ở Mỹ, không có sự gia tăng đột biến.
Dữ liệu từ EIA cho thấy tồn kho sản phẩm chưng cất của Mỹ tăng 3,2 triệu thùng so với ước tính tăng 2,5 triệu thùng.
Trong khi đó, kết quả thăm dò của Reuters cho thấy đa số các nhà phân tích dự báo Cục Dự trữ Liên bang Mỹ sẽ cắt giảm lãi suất cơ bản vào tháng 9 năm nay.
Theo công cụ FedWatch của CME, các nhà giao dịch hiện dự đoán gần 69% khả năng lãi suất của Mỹ sẽ giảm vào tháng 9, tăng so với khoảng 50% dự đoán vào tuần trước.
John Kilduff, đối tác tại Again Capital, cho biết: “Dữ liệu về nhu cầu dầu mỏ thế giới yếu đến mức sẽ tạo cơ sở cho Fed cắt giảm lãi suất và thúc đẩy tăng trưởng nhu cầu dầu”.
Lãi suất hạ xuống sẽ làm giảm chi phí vay, từ đó có thể khuyến khích hoạt động kinh tế và thúc đẩy nhu cầu dầu mỏ.
Các chỉ số chứng khoán của Mỹ cũng tăng vào thứ Tư, khi các nhà đầu tư tăng cường đặt cược vào chu kỳ nới lỏng chính sách của Cục Dự trữ Liên bang sẽ bắt đầu sớm hơn dự kiến.
Cả hai hợp đồng đều giảm trong 5 phiên liên tiếp và giảm hơn 1% vào thứ Ba xuống mức thấp nhất kể từ đầu tháng Hai.
Giá giảm sau tin tức từ Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) và các đồng minh của tổ chức này, một nhóm được gọi là OPEC+, về kế hoạch tăng nguồn cung từ quý 4 bất chấp những dấu hiệu gần đây về tăng trưởng nhu cầu suy yếu.
Bộ trưởng năng lượng Saudi Arabia, Hoàng tử Abdulaziz bin Salman, cho biết OPEC+ sẽ tạm dừng việc dỡ bỏ chương trình cắt giảm sản lượng hoặc đảo ngược những gì đã làm nếu nhu cầu không đủ mạnh để hấp thụ dầu.
Bộ trưởng Năng lượng Mỹ Jennifer Granholm nói với Reuters hôm thứ Ba rằng Mỹ có thể đẩy nhanh tốc độ bổ sung dầu vào kho Dự trữ Dầu mỏ Chiến lược của nước này, đồng thời cho biết thêm rằng bà tin tưởng thị trường dầu mỏ toàn cầu được cung cấp đầy đủ.
Tuy nhiên, yếu tố đè nặng lên giá là đợt cắt giảm giá bán dầu chính thức của Saudi Arabia đối với loại dầu thô Arab Light của nước này sang châu Á, vào tháng 5 vừa qua. Việc giảm giá ở châu Á nhấn mạnh áp lực mà các nhà sản xuất OPEC phải đối mặt khi nguồn cung ngoài OPEC tiếp tục tăng và mối lo ngại về nhu cầu.
Kim loại quý: Giá vàng tăng hơn 1% vào thứ Tư do lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ giảm sau khi dữ liệu bảng lương tư nhân của Mỹ yếu hơn dự kiến giúp củng cố dự đoán rằng Cục Dự trữ Liên bang sẽ cắt giảm lãi suất vào cuối năm nay.
Vàng giao ngay đã tăng 1,2% lên 2.355,49 USD/ounce, sau khi giảm 1% trong phiên trước. Giá vàng kỳ hạn tháng 8 tại Mỹ tăng 1,2% lên 2.375,50 USD.
Lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ chuẩn đã giảm xuống mức thấp nhất kể từ ngày 5 tháng 4 sau khi dữ liệu cho thấy bảng lương tư nhân của Mỹ tăng ít hơn dự kiến trong tháng 5.
Bob Haberkorn, chiến lược gia thị trường cấp cao tại RJO Futures, cho biết số lượng lao động yếu đã đổ thêm dầu vào lửa khiến Fed có thể phải cắt giảm lãi suất trước cuối năm, làm tăng sức hấp dẫn của vàng. Lãi suất thấp hơn làm giảm chi phí cơ hội của việc nắm giữ vàng không sinh lời.
Các nhà phân tích cho biết báo cáo bảng lương phi nông nghiệp của Mỹ dự kiến công bố vào thứ Sáu được các nhà giao dịch rất chờ đợi vì nó sẽ có khả năng ảnh hưởng đến giá vàng.
Bart Melek, người phụ trách bộ phận chiến lược hàng hóa tại TD Securities, cho biết: “Nếu chúng ta thấy Bảng lương của Mỹ giảm đáng kể, thị trường sẽ thoải mái hơn rất nhiều khi nghĩ rằng Cục Dự trữ Liên bang có thể bắt đầu cắt giảm (lãi suất) vào khoảng cuối mùa hè tháng 9”.
Trên thị trường vàng vật chất, Hội đồng Vàng Thế giới (WGC) cho biết lượng mua ròng vàng của các ngân hàng trung ương toàn cầu đã tăng lên 33 tấn trong tháng 4 so với mức mua ròng 3 tấn trong tháng 3 (con số đã điều chỉnh), báo hiệu nhu cầu vàng tiếp tục mạnh mẽ của ngành này bất chấp giá cao nhu cầu mua vàng vật chất đã tăng lên. giá cao.
Về các kim loại quý khác, giá bạc giao ngay tăng 1,7% lên 29,99 USD/ounce, bạch kim tăng 0,6% lên 993,45 USD mỗi ounce và palladium tăng 1,7% lên 931,18 USD mỗi ounce.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng giảm xuống mức thấp gần một tháng vào thứ Tư, tạm dừng đợt tăng mạnh nhất trong nhiều năm do dự đoán nhu cầu mạnh mẽ đối với kim loại quan trọng cho điện khí hóa vẫn chưa chuyển thành mức tăng tiêu thụ.
Đồng kỳ hạn 3 tháng trên Sàn giao dịch kim loại Luân Đôn chạm mức thấp nhất kể từ ngày 9 tháng 5, là 9.860 USD/tấn, dưới mức kỹ thuật quan trọng 10.000 USD. Cuối phiên, giá ổn định ở mức 9.951 USD.
Đồng USD tăng sau khi dữ liệu cho thấy lĩnh vực dịch vụ của Mỹ phục hồi vào tháng 5, làm nổi bật sự không chắc chắn xung quanh việc bắt đầu chu kỳ nới lỏng của Cục Dự trữ Liên bang vào cuối năm nay, cũng gây áp lực lên giá kim loại.
Giá đồng đã đạt mức cao kỷ lục trên các sàn giao dịch ở London, Thượng Hải và Chicago trong hai tháng qua. Đồng LME kể từ đó đã giảm giá nhưng vẫn tăng 15% trong năm nay.
Tom Price của Liberum cho biết: “Các yếu tố cơ bản không có trước đợt giá đồng phục hồi và sau đợt tăng, nó thậm chí còn trở nên tồi tệ hơn”.
Tồn kho đồng tại Trung Quốc – nước tiêu thụ hàng đầu thế giới, hiện ở mức 321.695 tấn, cao nhất kể từ tháng 4 năm 2020, trong khi tồn trữ của sàn LME đạt 118.950 tấn, cao nhất kể từ ngày 24 tháng 4.
David Wilson của BNP lưu ý những lo ngại về nguồn cung alumina, một nguyên liệu thô để sản xuất nhôm. Từ cuối tháng 5, nhiều quỹ đã bán đồng và mua nhôm hơn. Ông viết: “Giá alumina giao ngay hiện đã tăng gần 40% từ đầu năm đến nay”, đồng thời cho biết thêm rằng tình trạng thiếu alumina có thể hỗ trợ chi phí bền vững cho giá nhôm sơ cấp trong thời gian còn lại của năm 2024.
Trong số các kim loại khác, giá niken giảm xuống mức thấp nhất trong 7 tuần là 18.240 USD, kết thúc phiên giá giảm 3,3% xuống 18.435 USD. Giá kẽm giảm 2,1% xuống 2.873 USD, thiếc giảm 1,2% xuống 31.535 USD và chì giảm 0,6% xuống 2.230 USD.
Giá quặng sắt trên thị trường Trung Quốc giảm 5 phiên liên tiếp xuống mức thấp nhất 7 tuần do nhu cầu thép chững lại và dự kiến nhập khẩu sẽ tăng trong tháng 6.
Quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2024 trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên (DCE) của Trung Quốc kết thúc phiên giảm 1,84% xuống 825 nhân dân tệ (113,86 USD)/tấn, mức thấp nhất kể từ ngày 16/4. Trên Sàn Singapore, quặng sắt kỳ hạn tháng 7/2024 trên Sàn giao dịch Singapore giảm 1,21% xuống 106,35 USD/tấn, mức thấp nhất kể từ ngày 11/4.
Nhà phân tích Cheng Peng của Sinosteel cho biết: “Thị trường lúc này tập trung chú ý vào các yếu tố cơ bản, với nguồn cung có thể sẽ duy trì ở mức cao trong tháng 6, trong khi sự lạc quan về nhu cầu tăng nhờ các gói kích thích kinh tế cũng giảm dần, cho thấy không có nhiều khả năng giá sẽ tăng do nhu cầu”.
Theo các nhà phân tích của Huatai Futures, việc tiêu thụ nguyên liệu sản xuất thép và sản lượng kim loại nóng cùng giảm, trong khi tồn kho ở cảng tiếp tục tăng, khiến giá quặng chịu áp lực đi xuống.
Dữ liệu từ nhà cung cấp thông tin Zhaogang cho thấy mức tiêu thụ các sản phẩm thép tấm cỡ trung, thép cuộn cán nóng (HRC) và thép xây dựng giảm mạnh trong tuần này giảm mạnh hơn các tuần trước. Đồng thời, việc đình chỉ các hoạt động xây dựng để chuẩn bị cho kỳ thi tuyển sinh đại học quốc gia sắp tới ở nhiều thành phố của Trung Quốc cũng hạn chế nhu cầu thép. Nhìn chung, dữ liệu xấu hơn dự kiến khiến nhiều người cho rằng giá sẽ còn giảm hơn nữa.
Ông Cheng Peng cho biết thêm: “Tuy nhiên, một số nhà máy thép có thể quay trở lại dự trữ hàng hóa để đáp ứng nhu cầu sản xuất trong Lễ hội Thuyền rồng sắp tới sau khi giá giảm liên tục, điều này có thể hạn chế giá giảm mạnh”.
Thị trường tương lai Trung Quốc sẽ đóng cửa vào ngày 10/6 để nghỉ lễ.
Nông sản: Giá lúa mì Mỹ giảm ngày thứ sáu liên tiếp, do tiến triển trong vụ thu hoạch mùa đông của Mỹ thuận lợi gây áp lực lên giá trong bối cảnh lo ngại về vụ mùa ở Nga giảm bớt.
Ngô cũng giảm giá trong khi đậu tương giảm do các thương nhân theo dõi thời tiết ở Mỹ và tình trạng mất mùa ở Nam Mỹ.
Các thương nhân cho biết những lo ngại về hạn hán và sương giá gây thiệt hại cho vụ lúa mì của Nga đã tác động vào thị trường.
Hợp đồng lúa mì giao dịch tích cực nhất trên Sàn Thương mại Chicago (CBOT) giảm 11-1/2 US cent xuống còn 6,46-3/4 USD/bushel. Giá lúa mì xuống mức thấp nhất kể từ ngày 10 tháng 5. Giá đậu tương giảm 1-3/4 US cent xuống 11,77-1/4 USD và ngô giảm 3-1/4 xu xuống 4,39-1/4 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn trên sàn ICE tăng lên mức cao nhất 3 tuần trong bối cảnh lo ngại về thời tiết đối với cây trồng ở Brazil và Thái Lan.
Đường thô kỳ hạn tháng 7 tăng 0,27 cent, tương đương 1,4%, lên 19,13 cent/lb, sau khi đạt mức cao nhất 3 tuần là 19,17. Đường trắng kỳ hạn tháng 8 trên sàn London tăng 0,8% lên 560,30 USD/tấn.
Các đại lý và nhà phân tích bày tỏ lo ngại về vụ mùa ở Brazil và Thái Lan. Thời tiết khô hạn kéo dài (ở Brazil) có thể tác động tiêu cực đến năng suất mía. BMI dự kiến sản lượng đường Thái Lan năm 2024/25 tăng 1,5% lên 185,7 triệu tấn, trong khi mức tiêu thụ sẽ tăng 0,5% lên 179,7 triệu tấn.
Giá cà phê Robusta tiếp tục xu hướng tăng gần đây lên mức cao nhất mọi thời đại.
Cà phê Robusta kỳ hạn tháng 9 tăng 133 USD, tương đương 3,2%, lên 4.322 USD/tấn, chỉ kém chút ít so với mức cao nhất mọi thời đại trong tháng 4. Cà phê arabica kỳ hạn tháng 9 giảm 0,7% xuống 2,31 USD/lb.
Nguồn cung tại nước sản xuất cà phê Robusta hàng đầu thế giới - Việt Nam - vẫn khan hiếm và các thương nhân đang theo dõi chặt chẽ thời tiết để xem liệu vụ mùa tới có cải thiện hay không.
Tuy nhiên, Rabobank lưu ý rằng xuất khẩu cà phê Robusta từ Brazil rất lớn trong khi tồn kho cà phê Robusta được ICE chứng nhận đang tăng lên. Colombia sản xuất 1,12 triệu bao cà phê Arabica chế biến loại 60 kg (132 lb) trong tháng 5, tăng 39% so với cùng kỳ năm ngoái.
Giá cao su trên thị trường Nhật Bản tăng trở lại sau ba phiên giảm trước đó, nhờ sự phục hồi của thị trường cao su Thượng Hải và do giá hàng thực tại các khu vực sản xuất vẫn ở mức cao.
Hợp đồng cao su giao tháng 11 trên sàn Osaka (OSE) chốt phiên tăng 1,3 yên, tương đương 0,4%, lên 332,1 yên (2,13 USD)/kg, sau khi có lúc giảm xuống mức thấp nhất trong phiên là 328,3 yên.
Hợp đồng cao su giao tháng 9 trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải (SHFE) tăng 70 nhân dân tệ, chốt phiên ở mức 15.050 nhân dân tệ (2.077 USD)/tấn, cũng phục hồi sau ba phiên giảm.
Hợp đồng cao su giao tháng 6 trên sàn SICOM của Singapore Exchange được giao dịch lần cuối ở mức 173,7 US cent/kg, tăng 0,4%.
“Giá trên sàn OSE theo sát sự phục hồi của Thượng Hải,” một đại lý có trụ sở tại Tokyo cho biết thêm rằng giá hàng thực tương đối cao ở quốc gia sản xuất hàng đầu thế giới - Thái Lan - cũng củng cố thị trường OSE.
Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

74,48

+0,41

+0,55%

Dầu Brent

USD/thùng

78,76

+0,35

+0,45%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

236,64

+1,28

+0,54%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,75

-0,01

-0,33%

Dầu đốt

US cent/gallon

231,44

+1,33

+0,58%

Vàng (Comex)

USD/ounce

2.373,80

-1,70

-0,07%

Vàng giao ngay

USD/ounce

2.355,14

-0,18

-0,01%

Bạc (Comex)

USD/ounce

30,11

+0,04

+0,12%

Bạch kim giao ngay

USD/ounce

998,81

-0,74

-0,07%

Đồng (Comex)

US cent/lb

462,50

+1,90

+0,41%

Đồng (LME)

USD/tấn

9.925,50

-19,50

-0,20%

Nhôm (LME)

USD/tấn

2.622,00

-41,50

-1,56%

Kẽm (LME)

USD/tấn

2.864,00

-71,00

-2,42%

Thiếc (LME)

USD/tấn

31.321,00

-611,00

-1,91%

Ngô (CBOT)

US cent/bushel

440,25

+1,00

+0,23%

Lúa mì (CBOT)

US cent/bushel

647,75

+1,00

+0,15%

Lúa mạch (CBOT)

US cent/bushel

353,75

+1,25

+0,35%

Gạo thô (CBOT)

USD/cwt

15,47

+0,07

+0,42%

Đậu tương (CBOT)

US cent/bushel

1.179,00

+1,75

+0,15%

Khô đậu tương (CBOT)

USD/tấn

360,70

+1,20

+0,33%

Dầu đậu tương (CBOT)

US cent/lb

43,16

+0,03

+0,07%

Hạt cải (ICE)

CAD/tấn

616,60

-0,50

-0,08%

Cacao (ICE)

USD/tấn

9.408,00

-149,00

-1,56%

Cà phê (ICE)

US cent/lb

231,95

-1,95

-0,83%

Đường thô (ICE)

US cent/lb

19,13

+0,27

+1,43%

Nước cam cô đặc đông lạnh (ICE)

US cent/lb

431,75

-9,25

-2,10%

Bông (ICE)

US cent/lb

73,51

0,00

0,00%

Lông cừu (ASX)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ (CME)

USD/1000 board feet

--

--

--

Cao su Singapore

US cent/kg

174,10

-1,10

-0,63%

Ethanol (CME)

USD/gallon

2,16

0,00

0,00%

 

 

Nguồn: Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)