Năng lượng: Giá dầu có tuần tăng mạnh nhất 2 tháng
Giá dầu phiên cuối tuần giảm nhẹ sau khi một cuộc khảo sát có kết quả cho thấy tâm lý người tiêu dùng Mỹ giảm sút. Mặc dù vậy, tính chung cả tuần, giá tăng 4% do dự báo nhu cầu dầu thô và nhiên liệu trong năm 2024 tăng.
Kết thúc phiên thứ Sáu, giá dầu thô Brent giảm 13 US cent xuống 82,62 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ của Mỹ (WTI) giảm 17 US cent xuống 78,54 USD/thùng.
Tuy nhiên, cả hai loại dầu đều có tuần tăng gần 4% - tuần tăng mạnh nhất kể từ tháng 4/2024.
Kết quả khảo sát cho thấy tâm lý người tiêu dùng Mỹ trong tháng 6/2024 giảm xuống mức thấp nhất 7 tháng. Tin này gây áp lực giảm giá dầu trong phiên cuối tuần.
Bob Yawger, giám đốc năng lượng tương lai tại Mizuho cho biết: “Dữ liệu được đưa ra thấp hơn dự kiến”. “Điều đó hàm ý rằng người tiêu dùng không tin tưởng vào tình hình kinh tế đang được cải thiện.”
Tuy nhiên, mức giảm được hạn chế bởi dự báo nhu cầu mạnh mẽ. Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) nâng nhẹ ước tính tăng trưởng dầu năm 2024, trong khi Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) giữ nguyên dự báo tăng trưởng tương đối mạnh 2,2 triệu thùng/ngày (bpd). Trong khi đó, Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) cắt giảm dự báo tăng trưởng nhu cầu xuống dưới 1 triệu bpd..
Tuy nhiên, cả ba nhà dự báo đều dự đoán nguồn cung sẽ thiếu hụt ít nhất cho đến đầu mùa đông, các nhà phân tích của Commerzbank nhấn mạnh.
Cũng trong tuần này, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đã quyết định giữ nguyên lãi suất và các nhà đầu tư tin rằng việc cắt giảm lãi suất khó có thể xảy ra trước tháng 12.
Nhà phân tích Arbara Lambrecht của Commerzbank cho biết: “Xét đến triển vọng kinh tế vẫn chưa chắc chắn ở các khu vực kinh tế lớn, việc tăng giá thêm là điều khó có thể xảy ra vào thời điểm hiện tại”.
Công ty dịch vụ năng lượng Baker Hughes cho biết số giàn khoan dầu của Mỹ đang hoạt động, một chỉ báo sớm về sản lượng tương lai, đã giảm 4 giàn xuống 488 giàn trong tuần này xuống mức thấp nhất kể từ tháng 1 năm 2022.
Ở những nơi khác, Nga cam kết đáp ứng các nghĩa vụ sản lượng của mình theo hiệp ước OPEC + sau khi cho biết họ đã vượt quá hạn ngạch vào tháng 5.
Nhà phân tích John Evans của PVM cho biết: “Cho dù có bao nhiêu lần hứa hẹn sẽ bù đắp cho việc tuân thủ kém trong tương lai, thì thị trường vẫn chứng kiến nguồn cung dầu ra thị trường tăng lên và một thỏa thuận có thể sẽ bị phá vỡ”.
Trọng tâm thị trường cũng là các cuộc đàm phán ngừng bắn ở Gaza, điều này có thể làm giảm bớt lo ngại về khả năng gián đoạn nguồn cung dầu từ khu vực.
Kim loại quý: Giá vàng có tuần tăng đầu tiên trong 4 tuần, bạc tăng
Giá vàng tăng hơn 1% trong phiên thứ Sáu và có tuần tăng đầu tiên trong 4 tuần do dấu hiệu lạm phát tại Mỹ chậm lại làm dấy lên kỳ vọng về việc cắt giảm lãi suất vào cuối năm nay và tình trạng bán tháo cổ phiếu trên khắp châu Âu.
Kết thúc phiên này, giá vàng giao tăng 1,3% lên 2.332,55 USD/ounce. Tính chung cả tuần, giá tăng 1,8%. Vàng kỳ hạn tháng 8/2024 trên sàn New York giảm 1,3% xuống 2.349,1 USD/ounce.
Cũng trong phiên này, giá bạc giao ngay tăng 1,6% lên 29,46 USD/ounce, sau khi chạm mức thấp nhất gần 1 tháng trong phiên trước đó. Giá bạch kim tăng 0,8% lên 953,99 USD và palladium tăng 1,3% lên 894,50 USD.
Trên các thị trường tài chính rộng lớn hơn, các chỉ số chứng khoán châu Âu giảm khi tài sản của Pháp sụt giảm do tình trạng bất ổn chính trị ở nước này. Tâm lý thận trọng bao trùm Phố Wall, khi các nhà đầu tư tạm dừng giao dịch sau khi các chỉ số S&P 500 và Nasdaq tăng mạnh.
Bart Melek, người đứng đầu bộ phận chiến lược hàng hóa tại TD Securities, cho biết: “Sự kết hợp giữa chứng khoán yếu đi và một số đợt giảm lãi suất (trong việc định giá hợp đồng tương lai của quỹ Fed) đang khơi dậy sự quan tâm đến vàng, bất chấp thực tế là Cục Dự trữ Liên bang đã thay đổi quan điểm tại cuộc họp FOMC”.
Các nhà giao dịch đã tăng tỷ lệ đặt cượt vào việc lãi suất sẽ được giảm 52 điểm cơ bản (bps) (hoặc hai lần cắt giảm, mỗi lần 1/4 điểm phần trăm) vào cuối tháng 12 sau khi dữ liệu lạm phát giảm nhẹ trong tuần này, tăng so với dự đoán giảm 37 điểm cơ bản đưa ra vào thứ Sáu tuần trước, khi báo cáo việc làm tốt hơn mong đợi đã dập tắt hy vọng Fed sẽ sớm cắt giảm lãi suất.
Lãi suất giảm có xu hướng tăng sức hấp dẫn đối với vàng thỏi.
Dữ liệu tuần này cho thấy giá tiêu dùng tháng 5 không thay đổi lần đầu tiên sau gần 2 năm, trong khi giá sản xuất bất ngờ giảm.
Kim loại công nghiệp: Giá giảm trong tuần
Phiên thứ Sáu, giá đồng giảm trong khi nickel chạm mức thấp nhất hơn 2 tháng do USD mạnh lên và lượng tồn trữ tăng.
Kết thúc phiên này, giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn London giảm 0,2% xuống 9.773 USD/tấn. Giá đồng đã giảm 12% kể từ mức cao đỉnh điểm 11.104,5 USD/tấn đạt được vào tháng 5. Tính chung cả tuần qua, giá đồng giảm khoảng 20 USD/tấn.
Đồng USD tăng mạnh gây áp lực thị trường, khiến hàng hóa được định giá bằng đồng USD trở nên đắt hơn khi mua bằng tiền tệ khác.
Tồn kho đồng tại các kho đăng ký với sàn LME đã tăng 28% trong tháng qua lên mức cao nhất trong 4 tháng.
Giá nickel trên sàn LME phiên này giảm 0,1% xuống 17.620 USD/tấn, sau khi chạm mức thấp nhất kể từ 4/4/2024, là 17.400 USD/tấn. Tính chung cả tuần, giá nickel giảm 2%.
Giá nickel giảm do tồn trữ tại Thượng Hải đạt mức cao nhất kể từ tháng 11/2020. Đồng thời, tồn trữ tại London tăng lên 87.480 tấn – cao nhất kể từ tháng 2/2022.
Tồn kho tăng một phần là do các nhà sản xuất Trung Quốc tăng sản lượng đồng cathode cao cấp có thể cung cấp trên sàn LME.
Nhà phân tích Tong Tong của CRU cho biết, các nhà đầu tư cũng đã chốt lời sau khi giá niken vào tháng 5/2024 đạt mức cao nhất kể từ tháng 8 năm 2023, mặc dù nhu cầu từ lĩnh vực thép không gỉ cải thiện và làm xói mòn tăng trưởng nguồn cung ở Indonesia trong quý II.
Ông nói: “Thị trường sẽ chuyển sang trạng thái thặng dư trong quý 3 khi nguồn cung của Indonesia tăng lên”.
Về các kim loại cơ bản khác, giá nhôm trên sàn London giảm 1,3% xuống 2.523 USD/tấn, sau khi chạm mức thấp nhất 2 tháng. Giá chì giảm 0,6% xuống 2.153,5 USD/tấn, sau khi chạm mức thấp nhất kể từ ngày 9/4/2024, và thiếc giảm 0,9% xuống 32.495 USD/tấn.
Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên tăng liên tiếp 2 phiên cuối tuần, được hỗ trợ bởi sản lượng kim loại nóng cao hơn so với dự kiến, song mối lo ngại về nhu cầu và tồn trữ ở các cảng tại nước tiêu thụ hàng đầu – Trung Quốc - ở mức cao, đã kéo giá quặng sắt giảm tuần thứ 3 liên tiếp.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn Đại Liên tăng 1,97% lên 827,5 CNY (114,05 USD)/tấn; tuy nhiên, tính chung cả tuần, giá giảm 1,7%. Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 7/2024 trên sàn Singapore tăng 0,23% lên 107,1 USD/tấn. Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây tăng 0,72%, thép cuộn cán nóng tăng 0,74%, thép cuộn tăng 0,83%, trong khi thép không gỉ giảm 0,57%.
Dữ liệu từ công ty tư vấn Mysteel cho thấy sản lượng kim loại nóng trung bình hàng ngày của các nhà sản xuất thép Trung Quốc được khảo sát đã tăng 1,5% so với tuần trước lên 2,39 triệu tấn tính đến ngày 14 tháng 6, mức cao nhất kể từ tháng 11 năm 2023.
Kim loại nóng là sản phẩm lò cao và là chỉ số chính về nhu cầu quặng.
Ngoài ra, ngân hàng trung ương Trung Quốc đã tổ chức một cuộc họp vào thứ Tư bàn về việc thúc đẩy hỗ trợ tài chính cho lĩnh vực nhà ở giá rẻ nhằm đẩy nhanh doanh số bán nhà tồn kho, nỗ lực mới nhất nhằm vực dậy lĩnh vực bất động sản đang gặp khó khăn.
Nhà phân tích Soni Kumari của ANZ cho biết: “Chính phủ Trung Quốc đang cố gắng vực dậy lĩnh vực bất động sản bằng một số nguồn lực được triển khai, nhưng tôi nghĩ sẽ có thêm một số biện pháp cần được triển khai trên thị trường để hỗ trợ lĩnh vực này và mang lại niềm tin cho người tiêu dùng”.
“Các xu hướng cơ cấu cho thấy thị trường sẽ có diễn biến yếu đi hơn là phục hồi đáng kể. Vì vậy, mỗi đợt phục hồi sẽ là một cơ hội bán ra.”
BMI Research cho biết: “sự gia tăng mạnh mẽ lượng tồn kho quặng sắt tại các cảng Trung Quốc đại lục, tăng lên 147,3 triệu tấn tính đến ngày 7 tháng 6, có khả năng đặt ra giới hạn giá trong những tháng tới”.
Nông sản: Giá đường tăng trong tuần, cà phê và cao su giảm
Đối với nhóm ngũ cốc, giá ngô ngô Mỹ phiên cuối tuần giảm sau khi đạt mức cao nhất 2 tuần do thời tiết vụ mùa toàn cầu diễn biến phức tạp. Giá lúa mì và đậu tương kỳ hạn cũng giảm, với đồng đô la mạnh khiến nông sản Mỹ kém hấp dẫn đối với các nhà nhập khẩu.
Trên sàn Chicago, giá ngô kỳ hạn tháng 7/2024 giảm 8-1/2 US cent xuống 4,5 USD/bushel; tính chung cả tuần, giá tăng 0,3%. Giá lúa mì kỳ hạn tháng 7/2024 giảm 7-1/4 US cent xuống 6,12-3/4 USD/bushel; tính chung cả tuần, giá giảm 2,4%. Giá đậu tương giao cùng kỳ hạn giảm 9-3/4 US cent xuống 11,79-3/4 USD/bushel.
Các thương nhân đang theo dõi thời tiết ở Mỹ khi cây ngô bước vào giai đoạn phát triển quan trọng vào tháng 7, trong khi việc thu hoạch lúa mì mùa đông đang tăng tốc. Nhà dự báo Maxar cho biết, nắng nóng và khô hạn có thể xảy ra trên khắp vành đai ngô phía đông nam và phía đông trong 15 ngày tới, làm gia tăng căng thẳng đối với cây ngô và đậu tương.
Các nhà phân tích cho biết tại khu vực Biển Đen, mưa ở những vùng khô hạn ở Nga và Ukraine đã mang lại một số hỗ trợ cho cây ngô, mặc dù lợi ích có thể bị hạn chế đối với lúa mì khi sắp thu hoạch. USDA đã cắt giảm ước tính sản lượng lúa mì của Nga và Ukraine trong tuần này sau hạn hán và sương giá.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 7/2024 trên sàn ICE giảm 0,16 US cent tương đương 0,8% xuống 19,43 US cent/lb; đường trắng kỳ hạn tháng 8/2024 trên sàn London giảm 0,9% xuống 562,1 USD/tấn. Tính chung cả tuần, giá đường thô tăng 2,26%.
Sản lượng đường của Brazil nửa cuối tháng 5 thấp hơn dự kiến.
Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn London giảm 84 USD tương đương 2,1% xuống 4.009 USD/tấn. Trong tuần trước, giá cà phê đạt mức cao kỷ lục 4.394 USD/tấn. Tính chung cả tuần, giá robusta giảm 3%. Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn ICE giảm 0,8% xuống 2,244 USD/lb; tính chung cả tuần, giá arabica giảm 0,2%.
Giá cao su tại Nhật Bản có tuần giảm mạnh nhất kể từ giữa tháng 3/2024, theo xu hướng giá giảm trên thị trường physical.
Phiên thứ Sáu, giá cao su kỳ hạn tháng 11/2024 trên sàn Osaka (OSE) giảm 4,7 JPY tương đương 1,3% xuống 338,3 JPY (2,14 USD)/kg. Tính chung cả tuần, giá giảm 5,3% - rời khỏi chuỗi tăng 5 tuần liên tiếp.
Giá cao su kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn Thượng Hải giảm 315 CNY xuống 15.235 CNY (2.099,82 USD)/tấn. Giá cao su kỳ hạn tháng 7/2024 trên sàn Singapore giảm 1,9% xuống 173,8 US cent/kg.
Farah Miller, Giám đốc điều hành của Helixtap Technologies, một công ty dữ liệu độc lập tập trung vào cao su, cho biết những biến động lớn trên thị trường kỳ hạn trong tuần này đã khiến các nhà sản xuất lốp xe quốc tế phần lớn lựa chọn "chờ đợi để tránh bị cuốn vào biến động".
“Diễn biến trên sàn OSE phản ánh thị trường nguyên liệu thô Thái Lan có xu hướng giảm giá một chút do hoạt động chốt lời xung quanh các mức kháng cự kỹ thuật.”
Cao su tấm cao su hun khói xuất khẩu của nhà sản xuất hàng đầu thế giới - Thái Lan (RSS3) phiên thứ Sáu giảm 1,7% so với phiên liền trước và giảm 3,7% so với tuần trước.
Diễn biến giá hàng hóa:

ĐVT

7/6

Giá 15/6

15/6 so với 14/6

15/6 so với 14/6 (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

75,53

78,45

-0,17

-0,22%

Dầu Brent

USD/thùng

79,62

82,62

-0,13

-0,16%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

238,26

239,96

-1,60

-0,66%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,92

2,88

-0,08

-2,64%

Dầu đốt

US cent/gallon

235,17

247,06

-1,62

-0,65%

Vàng (Comex)

USD/ounce

2.325,00

2.349,10

+31,10

+1,34%

Vàng giao ngay

USD/ounce

2.293,78

2.333,04

+28,83

+1,25%

Bạc (Comex)

USD/ounce

29,44

29,47

+0,41

+1,40%

Bạch kim giao ngay

USD/ounce

967,81

961,30

+8,49

+0,89%

Đồng (Comex)

US cent/lb

448,35

447,50

-0,50

-0,11%

Đồng (LME)

USD/tấn

9.762,50

9.741,50

-53,00

-0,54%

Nhôm (LME)

USD/tấn

2.578,00

2.517,50

-39,50

-1,54%

Kẽm (LME)

USD/tấn

2.767,00

2.767,50

-92,50

-3,23%

Thiếc (LME)

USD/tấn

31.452,00

32.318,00

-476,00

-1,45%

Ngô (CBOT)

US cent/bushel

448,75

470,25

-5,75

-1,21%

Lúa mì (CBOT)

US cent/bushel

627,50

628,50

-9,25

-1,45%

Lúa mạch (CBOT)

US cent/bushel

348,00

344,25

-1,75

-0,51%

Gạo thô (CBOT)

USD/cwt

15,55

15,70

+0,15

+0,96%

Đậu tương (CBOT)

US cent/bushel

1.179,25

1.149,75

-10,50

-0,90%

Khô đậu tương (CBOT)

USD/tấn

360,70

353,40

-3,80

-1,06%

Dầu đậu tương (CBOT)

US cent/lb

43,63

43,98

-0,18

-0,41%

Hạt cải (ICE)

CAD/tấn

649,50

624,40

-15,50

-2,42%

Cacao (ICE)

USD/tấn

9.163,00

9.701,00

-409,00

-4,05%

Cà phê (ICE)

US cent/lb

224,90

224,40

-1,85

-0,82%

Đường thô (ICE)

US cent/lb

19,00

19,49

-0,15

-0,76%

Nước cam cô đặc đông lạnh (ICE)

US cent/lb

423,75

422,40

+11,10

+2,70%

Bông (ICE)

US cent/lb

72,89

72,14

+0,35

+0,49%

Lông cừu (ASX)

US cent/kg

--

--

--

--

Gỗ xẻ (CME)

USD/1000 board feet

--

--

--

--

Cao su Singapore

US cent/kg

184,80

174,20

-5,00

-2,79%

Ethanol (CME)

USD/gallon

2,16

2,16

0,00

0,00%

 

 

Nguồn: Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)