Năng lượng: Giá dầu tăng khoảng 2% do tồn trữ dầu thô tại Mỹ thấp hơn dự kiến và đồng USD suy yếu, mặc dù kinh tế Trung Quốc tiếp tục phát đi những tín hiệu trì trệ.
Kết thúc phiên, giá dầu Brent tăng 1,35 USD, tương đương 1,6%, lên 85,08 USD/thùng; dầu WTI tăng 2,09 USD, tương đương 2,6%, lên 82,85 USD/thùng.
Hôm thứ Ba (16/7/2024), giá dầu Brent chạm mức thấp nhất kể từ ngày 14/6/2024 và dầu WTI chạm mức thấp nhất kể từ ngày 21/6/2024. Chênh lệch giá giữa dầu Brent và WTI thu hẹp còn 3,65 USD/thùng – thấp nhất kể từ tháng 10/2023. Mức chênh lệch thu hẹp có nghĩa là các công ty năng lượng có ít lý do hơn để chi tiền gửi tàu đến Mỹ để nhận dầu thô xuất khẩu.
Tại Mỹ, Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ cho biết, trong tuần kết thúc ngày 12/7/2024 công ty này đã lấy 4,9 triệu thùng dầu thô ra khỏi kho dự trữ, cao hơn nhiều so với dự báo của các nhà phân tích – là giảm 30.000 thùng – cũng như mức giảm 4,4 triệu thùng theo báo cáo của Viện Dầu mỏ Mỹ (EIA).
Đồng thời, đồng USD suy yếu cũng hỗ trợ giá dầu, sau khi đồng USD chạm mức thấp nhất 17 tuần so với giỏ các đồng tiền chủ chốt khác. Đồng đô la yếu đi có thể thúc đẩy nhu cầu dầu bằng cách làm cho các mặt hàng được định giá bằng đồng bạc xanh như dầu trở nên rẻ hơn đối với những người nắm giữ các loại tiền tệ khác.
Tuy nhiên, dữ liệu chính thức hồi đầu tuần cho thấy Trung Quốc, nước nhập khẩu dầu hàng đầu thế giới, tăng trưởng 4,7% trong quý 2, mức tăng trưởng chậm nhất kể từ quý 1 năm 2023. Thông tin này đã hạn chế mức tăng giá dầu thô.
Các nhà phân tích tại Citi Research của Citigroup trong một báo cáo cho biết: “Dữ liệu gần đây cho thấy tăng trưởng chậm lại ở Mỹ, khu vực đồng euro và Trung Quốc”. Họ nói thêm: “Các ngân hàng trung ương đang tiến gần hơn đến thời điểm có khả năng cắt giảm lãi suất một cách nghiêm túc”.
Tại Mỹ, hoạt động xây nhà dành cho một gia đình đã giảm xuống mức thấp nhất trong 8 tháng vào tháng 6 trong bối cảnh lãi suất thế chấp cao, cho thấy thị trường nhà đất có thể là lực cản đối với tăng trưởng kinh tế trong quý hai.
Các quan chức hàng đầu của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) hôm thứ Tư cho biết ngân hàng trung ương đang “tiến gần hơn” tới việc cắt giảm lãi suất do quỹ đạo lạm phát được cải thiện và thị trường lao động cân bằng hơn, những nhận xét tạo tiền đề cho đợt giảm chi phí đi vay đầu tiên vào tháng 9.
Fed đã tăng lãi suất mạnh mẽ vào năm 2022 và 2023 để ngăn chặn sự gia tăng lạm phát. Chi phí vay tăng đối với người tiêu dùng và doanh nghiệp, làm chậm tốc độ tăng trưởng kinh tế và giảm nhu cầu về dầu. Lãi suất hạ xuống có thể thúc đẩy nhu cầu dầu.
Kim loại quý: Giá vàng giảm sau khi tăng lên mức cao kỷ lục mọi thời đại do đồng USD suy yếu và thị trường ngày càng lạc quan về việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ sẽ cắt giảm lãi suất vào tháng 9/2024.
Kết thúc phiên, giá vàng giao ngay giảm 0,6% xuống 2.454,98 USD/ounce do hoạt động bán chốt lời sau khi đạt mức cao kỷ lục 2.482,29 USD/ounce túc đầu phiên giao dịch. Vàng giao sau giảm 0,3% xuống 2.459,9 USD/ounce.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giảm 3,7% xuống 30,21 USD/ounce, bạch kim giảm 0,4% xuống 996,30 USD và palladium giảm 0,5% xuống còn 953,93 USD.
“Kỳ vọng rằng chúng ta đang tiến gần hơn tới thời điểm Fed cắt giảm lãi suất và chúng ta đã thấy điều này khi lợi suất trái phiếu tiếp tục giảm dần, cùng với sự suy yếu của đồng đô la là những yếu tố hỗ trợ chính đằng sau động thái giá vàng tăng này”, David Meger, giám đốc đầu tư và giao dịch thay thế tại High Ridge Futures, cho biết.
Nhiều nhà hoạch định chính sách của Fed cho rằng họ ngày càng cảm thấy thoải mái hơn khi tốc độ lạm phát đang đi đúng hướng, quay trở lại mục tiêu của Fed, sau số liệu cao hơn dự kiến hồi đầu năm.
Thống đốc Fed Christopher Waller cho biết thời điểm ngân hàng trung ương Mỹ cắt giảm lãi suất “đang đến gần hơn”, nhưng sự không chắc chắn về hướng đi của nền kinh tế khiến không rõ khi nào việc giảm chi phí vay ngắn hạn có thể xảy ra.
Dữ liệu cho thấy sản lượng tại các nhà máy ở Mỹ tăng hơn dự kiến trong tháng 6, góp phần giúp sản lượng phục hồi vững chắc trong quý 2.
Theo CME FedWatch Tool, các thị trường hiện dự đoán 98% khả năng Mỹ sẽ cắt giảm lãi suất vào tháng 9.
Đồng USD giảm 0,5% xuống mức thấp nhất gần 4 tháng so với giỏ các đồng tiền chủ chốt. Lãi suất hạ giúp giảm chi phí cơ hội nắm giữ vàng và gây áp lực đối với đồng USD, khiến vàng trở nên rẻ hơn khi mua bằng tiền tệ khác.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng giảm do thị trường lo ngại nhu cầu tại Trung Quốc suy yếu và lượng tồn trữ tăng.
Kết thúc phiên, giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn London giảm 0,4% xuống 9.627 USD/tấn, sau khi giảm 1,5% trong phiên 16/7/2024.
Giá đồng đã tăng vào lúc đầu phiên sau khi chỉ số Dollar index giảm xuống mức thấp nhất 4 tháng, trong khi các kim loại khác cũng tăng giá.
Sự biến động của đồng đô la phần lớn là do đồng yên tăng giá mà các nhà giao dịch nghi ngờ là kết quả của việc chính phủ Nhật Bản can thiệp.
Nhận xét từ các quan chức Cục Dự trữ Liên bang Mỹ hôm thứ Tư, nói rằng việc cắt giảm lãi suất đang đến gần hơn, cũng gây áp lực lên đồng đô la. Đồng USD suy yếu khiến hàng hóa được định giá bằng đồng USD rẻ hơn khi mua bằng tiền tệ khác.
Tuy nhiên, giá đồng sau đó lại chìm trong sắc đỏ do lo ngại dai dẳng về nhu cầu mờ nhạt ở quốc gia tiêu thụ kim loại hàng đầu thế giới - Trung Quốc.
Các nhà đầu tư đang chờ đợi tin tức chính sách từ Hội nghị trung ương Đảng lần thứ 3, dự kiến kết thúc vào thứ Năm, sau khi dữ liệu kinh tế Trung Quốc yếu kém.
Nitesh Shah, chiến lược gia hàng hóa của WisdomTree, cho biết: “Tất cả các biện pháp (kích thích) cho đến nay vẫn chưa hiệu quả. Chính phủ Trung Quốc cần có nhiều chính sách hỗ trợ hơn nữa”.
Cũng gây áp lực lên giá đồng là hàng tồn kho tăng, làm nổi bật vấn đề nguồn cung dư thừa trên thị trường. Tồn trữ đồng đã tăng gấp đôi kể từ đầu tháng 6, lên mức cao nhất kể từ tháng 9 năm 2021.
Giá chì trên sàn London tăng 0,3% lên 2.189,5 USD/tấn, trong phiên có lúc đạt 2.224,5 USD/tấn – cao nhất 1 tuần, do tồn trữ giảm 18.675 tấn xuống mức thấp nhất 1 tháng.
Trong số các kim loại khác, giá nhôm trên sàn LME tăng 0,2% lên 2.409,50 USD/tấn, kẽm giảm 1,3% xuống 2.846,50 USD, niken giảm 0,7% ở mức 16.470 USD và thiếc giảm 0,8% xuống 32.900 USD.
Giá quặng sắt trên thị trường Trung Quốc giảm xuống mức thấp nhất gần 3 tuần do nhu cầu yếu theo tính chất mùa vụ tại Trung Quốc và nguồn cung trên toàn cầu tăng.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn Đại Liên giảm gần 2,7% xuống 805 CNY (110,78 USD)/tấn – thấp nhất kể từ ngày 26/6/2024; quặng sắt kỳ hạn tháng 8/2024 trên sàn Singapore giảm 2,34% xuống 104,85 USD/tấn. Trong phiên có lúc giá chạm 104,3 USD/tấn – thấp nhất kể từ ngày 28/6/2024.
Giá thép trên sàn giao dịch tương lai Thượng Hải giảm. Theo đó, thép cây và thép cuộn giảm 1,5%, thép cuộn cán nóng giảm 1,64%, thép không gỉ giảm 0,83%.
Giá quặng sắt giảm trong bối cảnh lo ngại nhu cầu tại Trung Quốc suy yếu, khi nguồn cung toàn cầu tăng, nhà phân tích ANZ cho biết.
Dữ liệu chính thức cho thấy, đầu tư bất động sản tại Trung Quốc trong nửa đầu năm 2024 giảm 10,1% so với cùng kỳ năm ngoái và doanh số bán nhà tính theo diện tích sàn giảm 19%.
Những cơn bão mùa hè cực mạnh tấn công khu vực phía nam Trung Quốc đang chuyển hướng sang các tỉnh miền Trung và miền Bắc. Công ty tư vấn Steelhome của Trung Quốc cho biết, các nhà máy thép đang duy trì tồn kho quặng sắt ở mức thấp với sức mua thấp.
Dữ liệu từ Cục Thống kê Quốc gia Trung Quốc cho thấy sản lượng quặng sắt thô tháng 6 của Trung Quốc tăng 9,9% so với cùng kỳ năm ngoái lên 96,62 triệu tấn.
Công ty khai thác Brazil Vale SA bày tỏ sự tin tưởng rằng sản xuất quặng sắt của họ năm 2024 sẽ đạt mức cao kỷ lục sau khi sản lượng tăng trong quý hai. Công ty cho biết sản lượng nguyên liệu sản xuất thép trong quý 2 đã tăng 2,4% so với một năm trước lên 80,6 triệu tấn.
Nông sản: Giá lúa mì Mỹ tăng 1,5% do hoạt động mua mua giá hời sau khi giá giảm xuống mức thấp nhất trong 4 tháng ở phiên trước đó. Giá ngô cũng tăng trong khi đậu tương biến động trái chiều khi cả hai thị trường đều dao động gần mức thấp nhất gần 4 năm.
Trên sàn Chicago, giá lúa mì kỳ hạn tháng 9/2024 tăng 9-3/4 US cent lên 5,4-1/2 USD/bushel, sau khi giảm xuống 5,25-1/4 USD/bushel – thấp nhất kể từ ngày 11/3/2024. Giá ngô kỳ hạn tháng 12/2024 tăng 3-1/4 US cent lên 4,12 USD/bushel. Giá đậu tương kỳ hạn tháng 8/2024 tăng 5-1/2 US cent lên 10,96 USD/bushel, trong khi giá đậu tương kỳ hạn tháng 11/2024 giảm 1 US cent xuống 10,42-1/4 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 10/2024 trên sàn ICE giảm 0,26 US cent tương đương 1,3% xuống 19,36 US cent/lb; đường trắng kỳ hạn tháng 8/2024 trên sàn London giảm 0,8% xuống 555,7 USD/tấn.
“Thị trường có thể bị kẹt trong phạm vi 19,00-20,50 trong một thời gian khá lâu cho đến khi thị trường có thể xác định được vụ mía thực sự (của Brazil) sẽ như thế nào,” một nhà môi giới có trụ sở tại Mỹ cho biết.
Những cơn mưa gần đây diễn ra rất thất thường ở Trung-Nam Brazil trong những ngày qua, một số khu vực có lượng mưa tốt còn những khu vực khác thì không.
Giá cà phê duy trì gần mức cao kỷ lục đạt được gần đây bởi nguồn cung tại các nước sản xuất hàng đầu – Brazil và Việt Nam – giảm.
Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn London duy trì vững ở mức 4.570 USD/tấn, gần với mức cao kỷ lục 4.681 USD/tấn trong tuần trước đó; cà phê arabica kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn ICE giảm 0,45 US cent tương đương 0,2% xuống 2,4315 USD/lb. Tuần trước, giá cà phê đạt mức cao nhất 2,5 năm (2,553 USD/lb).

Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

83,32

+0,47

+0,57%

Dầu Brent

USD/thùng

85,40

+0,32

+0,38%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

250,81

+0,68

+0,27%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,04

+0,01

+0,44%

Dầu đốt

US cent/gallon

250,19

+0,79

+0,32%

Vàng (Comex)

USD/ounce

2.471,10

+11,20

+0,46%

Vàng giao ngay

USD/ounce

2.466,35

+7,56

+0,31%

Bạc (Comex)

USD/ounce

30,61

+0,23

+0,75%

Bạch kim giao ngay

USD/ounce

999,96

+0,50

+0,05%

Đồng (Comex)

US cent/lb

440,40

-0,45

-0,10%

Đồng (LME)

USD/tấn

9.635,00

-28,50

-0,29%

Nhôm (LME)

USD/tấn

2.402,00

-4,00

-0,17%

Kẽm (LME)

USD/tấn

2.847,50

-37,50

-1,30%

Thiếc (LME)

USD/tấn

32.950,00

-221,00

-0,67%

Ngô (CBOT)

US cent/bushel

409,50

-2,25

-0,55%

Lúa mì (CBOT)

US cent/bushel

541,75

+2,50

+0,46%

Lúa mạch (CBOT)

US cent/bushel

323,25

+5,25

+1,65%

Gạo thô (CBOT)

USD/cwt

14,44

+0,01

+0,03%

Đậu tương (CBOT)

US cent/bushel

1.034,50

-6,50

-0,62%

Khô đậu tương (CBOT)

USD/tấn

309,60

-2,50

-0,80%

Dầu đậu tương (CBOT)

US cent/lb

44,06

+0,07

+0,16%

Hạt cải (ICE)

CAD/tấn

630,60

-0,90

-0,14%

Cacao (ICE)

USD/tấn

7.763,00

-81,00

-1,03%

Cà phê (ICE)

US cent/lb

243,15

-0,45

-0,18%

Đường thô (ICE)

US cent/lb

19,36

-0,26

-1,33%

Nước cam cô đặc đông lạnh (ICE)

US cent/lb

430,35

-19,90

-4,42%

Bông (ICE)

US cent/lb

71,89

-0,18

-0,25%

Lông cừu (ASX)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ (CME)

USD/1000 board feet

--

--

--

Cao su Singapore

US cent/kg

163,70

-0,10

-0,06%

Ethanol (CME)

USD/gallon

2,16

0,00

0,00%

 

 

Nguồn: Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)