Giá thép tại miền Bắc: Theo SteelOnline.vn, thương hiệu thép Hòa Phát, với dòng thép cuộn CB240 ở mức 13.580 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 13.790 đồng/kg.
Thương hiệu thép Việt Ý, dòng thép cuộn CB240 ở mức 13.530 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 13.640 đồng/kg.
Thép Việt Đức, với dòng thép cuộn CB240 ở mức 13.530 đồng/kg, thép thanh vằn D10 CB300 có giá 13.890 đồng/kg.
Thép Việt Sing, với thép cuộn CB240 có giá 13.500 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có mức giá 13.700 đồng/kg.
Thép VAS, với dòng thép cuộn CB240 ở mức 13.500 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 13.600 đồng/kg.
Giá thép tại miền Trung: Thép Hòa Phát, với dòng thép cuộn CB240 xuống ở mức 13.580 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 13.790 đồng/kg.
Thép Việt Đức, hiện dòng thép cuộn CB240 ở mức 13.990 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 14.190 đồng/kg.
Thép VAS hiện dòng thép cuộn CB240 ở mức 13.650 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 13.700 đồng/kg.
Thép Pomina, với dòng thép cuộn CB240 ở mức 14.180 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 14.180 đồng/kg.
Giá thép tại miền Nam
Thép Hòa Phát, thép cuộn CB240 ở mức 13.580 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 giảm có giá 13.790 đồng/kg.
Thép VAS, dòng thép cuộn CB240 ở mức 13.500 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 13.600 đồng/kg.
Thép Pomina, dòng thép cuộn CB240 ở mức 13.970 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 13.970 đồng/kg.
Giá thép trên sàn giao dịch
Thép cây trên sàn giao dịch tương lai Thượng Hải (SHFE) giao tháng 5/2025 giảm 10 Nhân dân tệ, xuống mức 3.389 Nhân dân tệ/tấn.
Giá quặng sắt tương lai giảm, khi các nhà đầu tư cân nhắc triển vọng thị trường thép toàn cầu và về sự phục hồi kinh tế của Trung Quốc dự báo yếu hơn so với loạt biện pháp kích thích mới nhất.
Hợp đồng quặng sắt tháng 1 được giao dịch nhiều nhất trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên (DCE) của Trung Quốc DCIOcv1 giảm 0,2% ở mức 759,0 Nhân dân tệ (106,46 USD)/tấn.
Giá quặng sắt chuẩn tháng 11 SZZFX4 trên sàn giao dịch Singapore giảm 0,06% ở mức 100,55 USD/tấn.
Sản lượng thép thô toàn cầu trong tháng 9 đã giảm 4,7% so với cùng kỳ năm trước xuống còn 143,6 triệu tấn, trong đó sản lượng của Trung Quốc giảm 6,1% xuống còn 77,1 triệu tấn, theo dữ liệu của Hiệp hội thép thế giới công bố vào thứ Ba.
"Chúng tôi đang điều chỉnh giảm đáng kể triển vọng nhu cầu thép năm 2024 của hầu hết các nền kinh tế lớn, phản ánh sự yếu kém dai dẳng trong sản xuất cùng với những trở ngại kinh tế toàn cầu dai dẳng" - hiệp hội cho biết trong một lưu ý riêng.
Hiệp hội dự kiến Trung Quốc sẽ chiếm chưa đến một nửa lượng tiêu thụ thép toàn cầu vào năm 2024 trong bối cảnh ngành bất động sản đang suy thoái.
Trong khi đó, các biện pháp kích thích mới nhất của Bắc Kinh sẽ không thúc đẩy nhu cầu trong nước một cách có ý nghĩa, để lại một nguồn gây căng thẳng thương mại chính, Bộ trưởng Tài chính Hoa Kỳ Janet Yellen và nhà kinh tế trưởng của Quỹ Tiền tệ Quốc tế Pierre-Olivier Gourinchas cho biết vào thứ Ba.
Tâm lý thị trường quặng sắt đã cải thiện sau các biện pháp kích thích mới được công bố vào thứ Sáu tuần trước nhưng vì các chính sách vẫn chưa mang lại bất kỳ lợi ích rõ ràng nào nên không có thay đổi lớn nào về cơ bản và kỳ vọng về sự cải thiện nhu cầu vẫn còn yếu, trang thông tin tài chính Trung Quốc Hexun Futures cho biết.
Các thành phần sản xuất thép khác trên DCE yếu hơn, với than cốc DJMcv1 và than cốc DCJcv1 lần lượt giảm 0,7% và 0,83%.
Tiêu chuẩn thép trên sàn giao dịch tương lai Thượng Hải giao dịch đi ngang. Thép cây SRBcv1 tăng 0,06%, thép cuộn cán nóng SHHCcv1 tăng nhẹ 0,14%, trong khi thép thanh SWRcv1 giảm 0,48% và thép không gỉ SHSScv1 mất 1,17%.