Năng lượng: Giá dầu giảm mạnh nhất kể từ 2016
Phiên cuối cùng của tháng 7/2018, giá dầu giảm sau khi kết quả khảo sát của hãng tin Reuters cho thấy tổng sản lượng dầu trong tháng 7/2018 của Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) đạt mức cao nhất kể từ đầu năm đến nay.
Kết thúc phiên này, dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giao tháng 9/2018 giảm 1,37 USD xuống còn 68,76 USD/thùng; dầu Brent giao cùng kỳ hạn sụt giảm 0,72 USD xuống 74,25 USD/thùng.
Như vậy trong tháng 7, dầu Brent giảm hơn 6%, còn dầu Mỹ giảm khoảng 7%, nhiều nhất kể từ tháng 7/2016 đối với cả 2 loại dầu tham chiếu này.
Cuộc khảo sát của hãng tin Reuters cho hay trong tháng 7/2018, OPEC đã tăng sản lượng thêm 70.000 thùng/ngày lên 32,64 triệu thùng/ngày, mức cao mới kể từ đầu năm đến nay.
Bộ trưởng Năng lượng Nga Alexander Novak tuần trước cho biết sản lượng dầu mỏ của Nga năm nay sẽ đạt 11,02 triệu thùng dầu/ngày, mức cao mới trong vòng 30 năm.
Các nhà phân tích cho biết những thông tin mới nhất từ Nga và OPEC báo hiệu rằng thị trường dầu mỏ toàn cầu sẽ không thiếu nguồn cung vào cuối năm nay, điều đã tạo sức ép lên giá dầu thời gian qua.
Kim loại quý: Giá vàng giảm
Phiên cuối cùng của tháng 7, giá vàng cũng giảm xuống mức thấp nhất một tuần rưỡi, đem lại tháng giảm giá thứ 4 liên tiếp do đồng USD mạnh lên trong bối cảnh lãi suất của Mỹ tăng tiếp tục gây sức ép lên vàng, khích lệ các nhà đầu tư bán mạnh.
Vàng giao ngay giảm 0,5% xuống 1.215,80 USD/ounce, thấp nhất kể từ 19/7/2018. Với 4 tháng giảm liên tiếp, vàng vừa lập kỷ lục chuỗi tháng giảm giá dài nhất kể từ 2013. Vàng Mỹ kỳ hạn giao sau giảm 0,6% trong phiên vừa qua, xuống 1.214,50 USD/ounce.
Đối với những kim loại quý khác, giá bạc phiên cuối tháng tăng 0,3% lên 15,53 USD/ounce nhưng tính chung cả tháng giảm hơn 3%, bạch kim cũng tăng 2,1% lên 841,1 USD/ounce.
USD kết thúc phiên vững so với rổ các đồng tiền chủ chốt, sau khi lập đỉnh cao nhất 3 tháng vào trước đó, khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ tái khẳng định triển vọng sẽ nâng lãi suất dần. Chỉ số đồng USD - được coi là thước đo "sức khỏe" của đồng bạc xanh so với các đồng tiền chủ chốt khác - tăng 0,14% lên 94,245 (điểm).
Trong con mắt của các nhà đầu tư, vàng đang phải nhường chỗ cho những tài sản khác. Chứng khoán thế giới tháng 7/2018 đã tăng điểm tốt nhất kể từ tháng 1/2018 bất chấp căng thẳng thương mại và lo ngại gia tăng gây làn sóng bán tháo cổ phiếu của lĩnh vực công nghệ trên toàn cầu.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) nhiều khả năng sẽ tiếp tục tiến trình tăng lãi suất sau khi kết thúc cuộc họp kéo dài hai ngày 31/7-1/8, qua đó sẽ giúp đồng USD mạnh lên nhưng lại khiến sức hấp dẫn của các tài sản không sinh lời như vàng giảm đáng kể.
Tuy nhiên, theo nhà quản lý cấp cao George Gero của công ty tư vấn đầu tư RBC Wealth Management, nếu Trung Quốc và Mỹ thực sự tiến hành đàm phán và đạt được kết quả khả quan, điều này sẽ hỗ trợ cho thị trường kim loại bởi lẽ nó sẽ giúp Trung Quốc trở lại thị trường vàng và tiếp nhận các đơn hàng.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng giảm, thép tăng mạnh
Giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn London kết thúc phiên cuối tháng 7/2018 tăng 0,8% lên 6.300 USD/tấn nhờ thông tin Mỹ và Trung Quốc đang xem xét nối lại các cuộc đàm phán để giải quyết những bất đồng thương mại, trong khi hãng sản xuất Codelco cũng thực hiện các cuộc thương lượng với công nhân. Tuy nhiên, tính chung cả tháng 7/2018, đồng vẫn mất khoảng 4,7%, mức giảm mạnh nhất kể từ tháng 12/2016, chủ yếu do căng thẳng thương mại Mỹ - Trung leo thang.
Về cuối tháng, những tín hiệu về kinh tế Trung Quốc càng góp phần gây áp lực lên giá đồng, khi chỉ số quản lý sức mua trong tháng 7/2018 giảm xuống 51,2 điểm, từ 51,5 điểm của tháng 6/2018 và thấp hơn mức 51,3 điểm trong cuộc thăm dò của Reuters.
Giá thép tại Trung Quốc tiếp tục duy trì ở mức cao nhất trong vòng hơn 5 năm. Phiên cuối tháng 7/2018, thép cây kỳ hạn giao tháng 10/2018 trên sàn Thượng Hải có lúc đạt 4.184 NDT (613 USD)/tấn, mức cao chưa từng có kể từ tháng 2/2013, trước khi kết thúc ở mức 4.171 NDT (tăng 1,1%), đưa tháng 7/2018 trở thành tháng giá tăng mạnh nhất trong vòng 8 tháng qua (tăng gần 10%) do Trung Quốc kiềm chế sản xuất để ngăn ô nhiễm môi trường khiến nguồn cung tại nước sản xuất và tiêu thụ số 1 thế giới này trở nên thắt chặt.
Số liệu của Hiệp hội Sắt Thép Trung Quốc cho thấy sản lượng thép trung bình ngày của các thành viên Hiệp hội trong giai đoạn 11-20/7/2018 là 1,96 triệu tấn, giảm 19.200 tấn so với 10 ngày đầu tháng 7/2018. Tồn trữ thép cây tại kho của các thương gia Trung Quốc tuần vừa qua chạm mức thấp nhất kể từ tháng 1/2018, chỉ 4,09 triệu tấn.
Trên thế giới, sản lượng thép của 64 quốc gia thuộc Hiệp hội Thép thế giới trong tháng 6/2018 cũng giảm 3 triệu tấn so với tháng trước đó, chỉ đạt 151,4 triệu tấn, do lo ngại chiến tranh thương mại sẽ làm rối loạn dòng chảy trên thị trường này.
Giá quặng sắt tăng theo giá thép. Kết thúc phiên vừa qua, quặng giao tháng 9/2018 trên sàn Đại Liên ở mức 488 NDT/tấn, tính chung trong tháng 7 tăng 3,3%. Hiện quặng sắt đang quanh mức cao nhất trong vòng nhiều năm, với loại 65% đạt 133,05 USD/tấn vào ngày 27/7/2018, cao nhất kể từ tháng 5/2014, theo Metal Bulletin; quặng 62% hiện cũng đạt gần 66 USD/tấn, sau khi chạm ngưỡng 67,76 USD/tấn ngày 20/7/2018.
Nông sản: Đường, cà phê đều giảm
Giá đường thô giao tháng 10/2018 trong phiên cuối tháng giảm 0,27 US cent tương đương 2,5% xuống 10,55 US cent/lb vào lúc đóng cửa, trước đó có lúc chỉ đạt 10,45 US cent, thấp nhất (đối với hợp đồng giao sau 3 tháng) kể từ cuối tháng 8/2015. Đường thô đã giảm tổng cộng 11% trong tháng 7/2018, nhiều nhất kể từ tháng 1/2018. Đường trắng giao tháng 10/2018 cũng giảm 2,9 USD (0,9%) trong phiên cuối tháng xuống 317,9 USD/tấn, thấp nhất kể từ tháng 4/2018. Lý do bởi nguồn cung dư thừa khi Thái Lan và Ấn Độ được mùa lớn, bù lại cho khả năng sản lượng giảm ở Brazil.
Cà phê arabica giao tháng 9/2018 giảm 1,5% trong phiên cuối tháng, tương đương 1,3% xuống 1,099 USD/lb do đồng real Brazil yếu đi. Tính chung cả tháng arabica giảm 1,4%. Robusta giao cùng kỳ hạn trong phiên này cũng giảm 16 USD tương đương 1% xuống 1.644 USD/tấn.
Giá chè trong phiên đấu giá tuần này tại Bangladesh tăng lần thứ 11 liên tiếp do nhu cầu mạnh đối với chè chất lượng cao trong bối cảnh nguồn cung khan hiếm. Giá đạt mức trung bình 238,27 taka (2,7 USD)/kg tại thành phố cảng Chittagong, so với 276,34 taka tuần trước. Sản lượng chè của Bangladesh đã giảm xuống gần 79 triệu kg trong năm 2017 so với mức cao kỷ lục 85 triệu kg năm trước đó do mưa quá nhiều.
Còn tại Ấn Độ, giá chè orthodox hiện thấp hơn khoảng 9,1% so với cùng kỳ năm ngoái do các ngân hàng nước này không tạo thuận lợi cho việc cấp tín dụng thư bằng đồng rupee cho hoạt động kinh doanh với Iran nữa (do Iran bị Mỹ tái trừng phạt về kinh tế). Hiện chè orthodox loại hảo hạng giá chỉ 216,63 rupee/kg, so với 238,32 rupee cách đây một năm. Trong 5 tháng đầu năm 2018, Ấn Độ xuất khẩu 10,36 triệu kg chè sàn Iran, tăng 13,59% so với cùng kỳ năm trước. Hàng năm Ấn Độ thường xuất khẩu khoảng 29-30 triệu kg chè orthodox sang Iran – thị trường phải nhập khẩu tới 95% nhu cầu chè, trong đó gần 90% từ Sri Lanka và Ấn Độ.
Đối với ngũ cốc, giá đậu tương Mỹ phiên cuối tháng tăng 3% lên mức cao nhất 1,5 tháng do kỳ vọng Mỹ và Trung Quốc nối lại đàm phán sẽ giúp mở lại cánh cửa xuất khẩu đậu tương Mỹ. Hợp đồng đậu tương giao tháng 11/2018 trên sàn Chicago tăng 28 US cent tương đương 3% lên 9,19 USD/bushel, cao nhất kể từ 18/6/2018.
Lúa mì cũng tăng trong phiên này, với hợp đồng giao tháng 9/2018 tăng 7-1/4 US cent đạt 5,53-3/4 USD/bushel. Lo ngại sản lượng sụt giảm do thời tiết tiếp tục hỗ trợ giá lúa mì. Các chuyên gia đã hạ dự báo về sản lượng của Nga, Liên minh châu Âu và Australia do thời tiết năm nay xấu, trong khi khô hạn kéo dài ở nhiều nơi thuộc vùng trung tây nước Mỹ cũng gây bất lợi cho mùa màng. Thông tin mới nhất vừa cho thấy sản lượng của Thụy Điển năm nay có thể giảm mạnh 40%, trong khi mưa quá nhiều vào tháng 7/2018 ở Bulgari chắc chắn cũng khiến sản lượng của nước này giảm xuống chỉ khoảng 5,5 triệu tấn vì năng suất thấp hơn khoảng 7% so với năm trước, đó là chưa kể đến chất lượng cũng kém đi.
Giá cao su tại Tokyo tiếp tục dao động trong biên độ hẹp – xu hướng của mấy tuần gần đây, chủ yếu theo xu hướng của sàn Thượng Hải. Tuy nhiên, phiên cuối tháng, hợp đồng giao tháng 1/2019 trên sàn Tokyo tăng 0,8 JPY (0,0072 USD) lên 170,4 JPY/kg nhưng hợp đồng giao tháng 9/2018 trên sàn Thượng Hải lại giảm 20 NDT (2,93 USD) xuống 10.340 NDT/tấn. Tồn trữ tiếp tục ở mức cao tại cả Nhật Bản và Trung Quốc khiến thị trường cao su châu Á chưa thể khởi sắc. Cao su RSS3 của Thái Lan kết thúc tháng 7/2018 ở mức 1,47 USD/kg trong khi loại SMR20 của Malaysia là 1,32 USD/kg.
Hiệp hội các nước sản xuất cao su thiên nhiên (ANRPC) cho biết các yếu tố cơ bản có sự cải thiện cũng không thể đẩy giá cao su thoát khỏi xu hướng giảm. Theo tổ chức này, nhu cầu cao su tự nhiên toàn cầu 6 tháng đầu năm 2018 đã tăng 5% so với cùng kỳ năm trước, lên gần 7 triệu tấn, trong khi đó nguồn cung cùng kỳ tăng 4,5% lên 6,2 triệu tấn (tức là thiếu hụt 746.000 tấn).

Giá hàng hóa thế giới

Hàng hóa

ĐVT

Giá 30/6

Giá 31/7

Giá 31/7 so với 30/7

Giá 31/7 so với 30/7 (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

73,22

68,40

-0,36

-0,52%

Dầu Brent

USD/thùng

78,24

74,25

-0,72

-0,96%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

50.950,00

50.050,00

-480,00

-0,95%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,91

2,78

-0,01

-0,25%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

213,01

212,91

-3,12

-1,44%

Dầu đốt

US cent/gallon

218,43

213,19

-3,91

-1,80%

Dầu khí

USD/tấn

669,50

657,25

-8,25

-1,24%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

68.780,00

68.430,00

-230,00

-0,33%

Vàng New York

USD/ounce

1.252,00

1.233,40

-0,20

-0,02%

Vàng Tokyo

JPY/g

4.456,00

4.393,00

+30,00

+0,69%

Bạc New York

USD/ounce

16,10

15,54

-0,02

-0,15%

Bạc TOCOM

JPY/g

57,30

55,80

+0,50

+0,90%

Bạch kim

USD/ounce

848,48

836,97

-1,65

-0,20%

Palladium

USD/ounce

953,41

932,95

-1,63

-0,17%

Đồng New York

US cent/lb

296,85

281,55

-1,60

-0,57%

Đồng LME

USD/tấn

6.626,00

6.300,00

+50,00

+0,80%

Nhôm LME

USD/tấn

2.133,00

2.081,00

-13,00

-0,62%

Kẽm LME

USD/tấn

2.854,00

2.625,00

+68,00

+2,66%

Thiếc LME

USD/tấn

19.750,00

20.080,00

+55,00

+0,27%

Ngô

US cent/bushel

360,25

386,50

+5,25

+1,38%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

502,75

553,75

+7,25

+1,33%

Lúa mạch

US cent/bushel

246,00

245,75

+3,00

+1,24%

Gạo thô

USD/cwt

11,20

11,92

-0,04

-0,33%

Đậu tương

US cent/bushel

882,75

919,00

+28,00

+3,14%

Khô đậu tương

USD/tấn

331,40

341,40

+7,70

+2,31%

Dầu đậu tương

US cent/lb

29,70

29,30

+0,45

+1,56%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

509,40

500,80

+7,00

+1,42%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.512,00

2.170,00

-69,00

-3,08%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

115,10

109,90

-1,50

-1,35%

Đường thô

US cent/lb

12,25

10,55

-0,27

-2,50%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

160,35

167,40

-1,70

-1,01%

Bông

US cent/lb

84,78

89,59

+0,39

+0,44%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

552,50

455,40

+9,90

+2,22%

Cao su TOCOM

JPY/kg

174,50

170,70

+0,30

+0,18%

Ethanol CME

USD/gallon

1,44

1,46

+0,01

+0,90%

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg