Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm do có thông tin OPEC+ cần giải quyết dư cung hơn 2 triệu thùng mỗi ngày và số lượng đơn xin trợ cấp thất nghiệp của Mỹ bất ngờ tăng, dấu hiệu sự phục hồi kinh tế chậm lại.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu thô Brent kỳ hạn tháng 10/2020 giảm 47 US cent hay 1% xuống 44,9 USD/thùng, trong khi dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) kỳ hạn tháng 9/2020 giảm 35 US cent hay 0,8% xuống 42,58 USD/thùng. Giá dầu kể từ giữa tháng 6 giao dịch trong biên độ lớn, theo đó dầu Brent từ 40 tới 46 USD/thùng, dầu WTI từ 37 tới 43 USD/thùng.
OPEC cùng đồng minh (OPEC+) ngày 19/8 cho biết tốc độ phục hồi của thị trường dầu dường như chậm hơn dự kiến với nguy cơ làn sóng Covid-19 thứ hai kéo dài ngày càng tăng. Một số thành viên của OPEC+ sẽ cần cắt giảm sản lượng thêm 2,31 triệu thùng/ngày để bù cho dư cung gần đây.
“Đà phục hồi hoạt động kinh tế toàn cầu, một phần lý do giúp giá dầu tăng trong tháng 5 – 6, đã chững lại… môi trường vĩ mô tiếp tục cho thấy sự suy yếu”, Georgi Slavov, giám đốc bộ phận nghiên cứu yếu tố cơ bản toàn cầu tại Marex Spectron, nói.
Tuy nhiên, xuất khẩu dầu thô từ Saudi Arabia, nhà xuất khẩu dầu lớn nhất thế giới, tiếp tục sụt giảm trong tháng 6, xuống mức thấp nhất trong lịch sử.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng cũng giảm do các nhà đầu tư đánh giá biên bản cuộc họp của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed).
Cuối phiên giao dịch, vàng giao ngay tăng 0,6% lên 1.940,14 USD/ounce. Vàng Mỹ kỳ hạn tháng 12 chốt phiên giảm 1,2% xuống 1.946,5 USD/ounce.
Biên bản cuộc họp của Fed cho thấy các điều kiện thị trường đang phần nào cải thiện. Tuy nhiên, biên bản cho thấy các nhà hoạch định chính sách lo ngại nền kinh tế này đối mặt với tình trạng rất không chắc chắn và có thể cần thêm hỗ trợ tiền tệ, nhấn mạnh rằng dịch COVID-19 tiếp tục có tác động lớn đến các hoạt động kinh tế, một dấu hiệu gây lo ngại cho các nhà đầu tư.
Báo cáo về số đơn xin trợ cấp thất nghiệp hàng tuần mà Bộ Lao động Mỹ công bố cho thấy con số này tăng 1,11 triệu trong tuần kết thúc ngày 15/8, cao hơn dự kiến. Fed tại Philadelphia công bố một báo cáo cho thấy chỉ số của lĩnh vực chế tạo giảm 7 điểm, xuống 17,2 điểm trong tháng Tám.
Các ngân hàng trung ương đã tung ra các gói kích thích khổng lồ và cắt giảm lãi xuất xuống gần bằng 0 để chống lại thiệt hại kinh tế từ đại dịch Covid-19, điều này đã khiến vàng tăng 28% trong năm nay.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao tháng 9/2020 giảm 19,3 US cent, hay 0,71%, xuống 27,147 USD/ounce; bạch kim giao tháng 10/2020 giảm 29,4 USD, hay 3,07%, xuống 926,9 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm do hoạt động bán chốt lời và do những nghi ngờ về liệu đợt tăng giá gần đây có phải do các yếu tố cung cầu hay không. Giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn giao dịch kim loại London (LME) giảm 1,2% xuống 6.606 USD/tấn.
Giá kim loại này đã chạm mốc 6.707 USD trong phiên trước, mức cao nhất kể từ tháng 6/2018 và tăng hơn 50% kể từ khi hoạt động kinh tế đình trệ trong tháng 3 bởi việc phong tỏa do Covid-19.
Lo ngại về nguồn cung trên thị trường LME được gây ra bởi tồn kho đồng trong kho LME ở mức thấp nhất trong 13 năm tại 104.425 tấn. Đó là lý do giá đồng giao ngay được giao dịch với mức cộng so với hợp đồng giao sau 3 tháng kể từ đầu tháng 7.
Một số nhà hoạch định chính sách của Fed cho rằng chính sách tiền tệ có thể phải được nới lỏng hơn nữa để đảm bảo nền kinh tế Mỹ vượt qua khủng hoảng do virus corona.
Giá quặng sắt giảm do những dấu hiệu nguồn cung tới Trung Quốc cải thiện ổn định và do giá giao ngay tăng vọt lên mức cao nhất trong hơn 6 năm. Quặng sắt giao tháng 1/2021 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên đóng cửa giảm 1,4% xuống 848 CNY (122,51 USD)/tấn, kết thúc 5 ngày tăng liên tiếp. Quặng sắt kỳ hạn tháng 9 tại Singapore giảm 0,2% xuống 124,05 USD sau khi tăng trong đầu phiên giao dịch.
Các thương nhân ngày càng thận trọng với nguy cơ nguồn cung đang tăng gây áp lực cho tâm lý.
Giá quặng sắt nhập bằng đường biển tại Trung Quốc hướng tới 130 USD/tấn trong tuần này, bởi nhu cầu mạnh lên mức có thể bắt đầu gây thiệt hại cho lợi nhuận sản xuất thép tại quốc gia sản xuất và tiêu dùng kim loại lớn nhất thế giới này.
Các nhà máy thép Trung Quốc tiếp tục tăng cường sản xuất, bởi nhu cầu trong nước đặc biệt đối với thép thanh trong xây dựng vẫn mạnh khi chính phủ tăng cường chi tiêu cho cơ sở hạ tầng.
Thép thanh tại Thượng Hải giảm 1,5%, thép cuộn cán nóng giảm 0,2%. Thép không gỉ đóng cửa phiên tăng 0,1%.
Trên thị trường nông sản, giá đậu tương trên sàn Chicago giảm sau khi đạt mức cao nhất 7 tháng trong một ngày trước, ngô cũng giảm do các thương nhân cho rằng thiệt hại do cơn bão gần đây không ảnh hưởng nhiều tới triển vọng sản lượng vụ thu hoạch nói chung là tốt.
Hợp đồng đậu tương trên sàn giao dịch Chicago đóng cửa giảm 8-3/4 US cent xuống 9,05-1/4 USD/bushel; ngô CBOT giảm 1/2 US cent xuống 3,39-1/4 USD/bushel, trong khi lúa mì tăng 6-1/2 US cent lên 5,28-1/2 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 10 đóng cửa giảm 0,23 US cent hay 1,7% xuống 13,01 US cent/lb; đường trắng kỳ hạn tháng 10 giảm 3,2 USD hay 0,8% xuống 376,5 USD/tấn.
Các đại lý cho biết đồng real của Brazil suy yếu, giảm xuống mức thấp nhất 3 tháng so với USD là một yếu tố giảm giá đường. Sản lượng đường của Brazil dự kiến tăng 32% lên 39,33 triệu tấn, theo cơ quan Conab.
Nhà phân tích tại ngân hàng Commonwealth của Australia cho biết vấn đề là giá đường thực tế ở mức cao nhất kể từ năm 2016, một giai đoạn giá đường rất cao và có thể các nhà máy ở Brazil thúc đẩy sản xuất thêm đường. Các nhà máy tại Brazil có thể chuyển sang sản xuất đường hay nhiên liệu sinh học ethanol phụ thuộc vào lợi nhuận liên quan.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 12 đóng cửa giảm 0,4 US cent hay 0,3% xuống 1,1895 USD/lb; robusta kỳ hạn tháng 11 giảm 1 USD hay 0,1% xuống 1.385 USD/tấn.
Các nhà dự báo tại Brazil cho biết không có nguy cơ sương giá tại khu vực chính trồng cà phê khi một khối không khí lớn ở Nam cực di chuyển qua Brazil.
Tại Việt Nam giao dịch cà phê trầm lắng trong tuần này do nguồn cung thấp. Nông dân tại Tây Nguyên đã bán cà phê nhân xô ở mức 33.300 – 33.500 đồng (1,44 USD -1,45 USD)/kg, so với mức 33.000 – 33.500 đồng/kg.
Một thương nhân ở Đắk Lắk cho biết tồn kho thấp đã ảnh hưởng tới giao dịch. Gần như không có giao dịch nào được thực hiện trong những tuần qua. Mặt khác, mưa ổn định cung cấp đủ nước cho vụ tới, vụ thu hoạch dự kiến bắt đầu trong cuối tháng 11 hay đầu tháng 12.
Thương nhân đã chào bán cà phê robusta loại 2 với 5% hạt đen và vỡ ở mức cộng 80 – 90 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 11 tại London, mức cộng một tuần trước là 80 USD/tấn.
Tại tỉnh Lampung, Indonesia, mức cộng của cà phê rubusta Sumatran tiếp tục giảm do nguồn cung tăng khi vụ thu hoạch đang diễn ra. Cà phê được chào bán ở mức cộng 160 USD so với hợp đồng kỳ hạn tháng 9, một tuần trước mức cộng là 180 -190 USD/tấn.
Giá hàng hóa thế giới sáng 21/8/2020

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

42,88

+0,06

+0,14%

Dầu Brent

USD/thùng

45,02

+0,12

+0,27%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

30.400,00

-100,00

-0,33%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,36

+0,01

+0,21%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

130,76

+1,11

+0,86%

Dầu đốt

US cent/gallon

124,96

+0,29

+0,23%

Dầu khí

USD/tấn

374,00

+3,00

+0,81%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

42.810,00

-10,00

-0,02%

Vàng New York

USD/ounce

1.953,70

+7,20

+0,37%

Vàng TOCOM

JPY/g

6.598,00

-63,00

-0,95%

Bạc New York

USD/ounce

1.953,70

+7,20

+0,37%

Bạc TOCOM

JPY/g

6.598,00

-63,00

-0,95%

Bạch kim

USD/ounce

923,97

+2,36

+0,26%

Palađi

USD/ounce

2.190,65

+6,65

+0,30%

Đồng New York

US cent/lb

300,85

+1,70

+0,57%

Đồng LME

USD/tấn

6.601,50

-83,50

-1,25%

Nhôm LME

USD/tấn

1.789,50

-4,00

-0,22%

Kẽm LME

USD/tấn

2.489,00

-16,00

-0,64%

Thiếc LME

USD/tấn

17.570,00

-70,00

-0,40%

Ngô

US cent/bushel

339,25

0,00

0,00%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

528,25

-0,25

-0,05%

Lúa mạch

US cent/bushel

262,00

-1,50

-0,57%

Gạo thô

USD/cwt

12,36

+0,02

+0,16%

Đậu tương

US cent/bushel

906,50

+1,25

+0,14%

Khô đậu tương

USD/tấn

301,40

+0,80

+0,27%

Dầu đậu tương

US cent/lb

31,51

-0,01

-0,03%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

482,30

-0,70

-0,14%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.400,00

-60,00

-2,44%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

118,95

-0,40

-0,34%

Đường thô

US cent/lb

13,01

-0,23

-1,74%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

119,55

-2,15

-1,77%

Bông

US cent/lb

64,36

-0,16

-0,25%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

801,90

+19,00

+2,43%

Cao su TOCOM

JPY/kg

173,10

-1,90

-1,09%

Ethanol CME

USD/gallon

1,29

-0,02

-1,53%

 

 

Nguồn: VITIC / Reuters, Bloomberg