Năng lượng: Giá dầu Brent giảm xuống mức thấp nhất kể từ tháng 12/2021, sau khi OPEC+ điều chỉnh giảm dự báo nhu cầu trong năm nay và năm 2025, làm át đi nỗi lo về nguồn cung do bão nhiệt đới Francine gây ra.
Kết thúc phiên, dầu Brent giảm 2,65 USD, tương đương 3,69%, xuống 69,19 USD/thùng; dầu WTI giảm 2,69 USD, tương đương 4,31%, xuống 65,75 USD/thùng.
Đầu phiên, cả hai loại dầu đều giảm hơn 3 USD/thùng trong phiên, sau khi tăng 1% trong phiên thứ Hai. Dầu WTI hôm thứ Ba giảm hơn 5% xuống mức thấp nhất kể từ tháng 5/2023.
Hôm thứ Ba, Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) trong báo cáo hàng tháng cho biết nhu cầu dầu thế giới sẽ tăng 2,03 triệu thùng mỗi ngày (bpd) trong năm 2024, giảm so với dự báo trước đó là tăng 2,11 triệu bpd của. Cho đến tháng 8, OPEC vẫn giữ nguyên dự báo kể từ lần đầu tiên đưa ra vào tháng 7 năm 2023.
Lần này, OPEC hạ dự báo về tăng trưởng nhu cầu toàn cầu năm 2025 xuống còn 1,74 triệu bpd từ mức 1,78 triệu bpd đưa ra trước đây. Giá dầu đang giảm là do triển vọng nhu cầu toàn cầu suy yếu và dự kiến tình trạng dư cung dầu.
Trong khi đó, Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) dự đoán nhu cầu dầu toàn cầu sẽ tăng lên mức cao kỷ lục trong năm nay và tăng trưởng sản lượng sẽ thấp hơn so với dự báo trước đó. Cụ thể, nhu cầu dầu toàn cầu dự kiến sẽ tăng trung bình khoảng 103,1 triệu thùng/ngày trong năm nay, cao hơn 200.000 bpd so với dự báo trước đó là 102,9 triệu bpd.
Sau báo cáo của EIA, giá dầu vẫn ở mức thấp do lo ngại về tình trạng kinh tế Trung Quốc. Số liệu công bố cho thấy xuất khẩu của Trung Quốc trong tháng 8/2024 tăng nhanh nhất trong gần 1,5 năm, song nhập khẩu lại gây thất vọng do nhu cầu trong nước giảm.
Trong khi đó, biên lợi nhuận của các nhà máy lọc dầu châu Á vào tuần trước đã giảm xuống mức thấp nhất theo mùa kể từ năm 2020 do nguồn cung dầu diesel và xăng tăng. "Gần như không có nhu cầu dầu tăng ở các nền kinh tế tiên tiến trong năm nay. Các biện pháp kích thích tài chính ở Trung Quốc không thúc đẩy lĩnh vực xây dựng; đó là một lý do lớn khiến nhu cầu dầu diesel của Trung Quốc đang giảm", Clay Seigle, một chiến lược gia thị trường dầu mỏ cho biết.
Các nhà đầu tư ngày càng tin rằng nền kinh tế toàn cầu đang chậm lại, theo Phil Flynn, một nhà phân tích cấp cao tại Price Futures Group.
Trong khi đó, Bão nhiệt đới Francine đã tràn qua Vịnh Mexico khiến các nhà khai thác phải đóng cửa khoảng 1/4 sản lượng dầu thô ngoài khơi, Cục An toàn và Thực thi Môi trường Mỹ cho biết vào thứ Ba.
Theo dữ liệu của liên bang, Vịnh Mexico của Mỹ chiếm khoảng 15% tổng sản lượng dầu và 2% sản lượng khí đốt tự nhiên của nước này.
Thông tin từ Viện Dầu khí Mỹ cho biết lượng dầu thô và xăng tồn kho của Mỹ vào tuần trước đã giảm trong khi sản phẩm chưng cất tăng. Các số liệu của API cho thấy lượng dầu thô tồn kho đã giảm 2,793 triệu thùng trong tuần kết thúc vào ngày 6 tháng 9, lượng xăng tồn kho cũng giảm 513.000 thùng trong khi tồn trữ sản phẩm chưng cất tăng 191.000 thùng.
Kim loại quý: Giá vàng tăng vượt ngưỡng 2.500 USD/ounce khi những người tham gia thị trường chờ đợi dữ liệu lạm phát của Mỹ để có thêm manh mối về mức độ cắt giảm lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang vào tuần tới.
Kết thúc phiên này, vàng giao ngay tăng 0,3% lên 2.512,38 USD/ounce; vàng kỳ hạn tháng 12/2024 tăng 0,4% lên 2.543,1 USD/ounce.
"Giá vàng đang giao dịch trong phạm vi cực kỳ hẹp, chờ đợi chất xúc tác tiếp theo, có khả năng là cuộc tranh biện của tổng thống Mỹ và dữ liệu lạm phát ", Daniel Ghali, chiến lược gia hàng hóa tại TD Securities cho biết. Các nhà đầu tư sẽ xem xét kỹ lưỡng dữ liệu Chỉ số giá tiêu dùng và chỉ số giá sản xuất của Mỹ. Theo một cuộc thăm dò của Reuters, CPI của Mỹ trong tháng 8 ước tiính tăng 0,2% so với tháng trước.
"Giá vàng giao ngay vẫn được hỗ trợ trên mức tâm lý 2.500 đô la và bất kỳ đợt giảm giá nào nếu có cũng sẽ thúc đẩy hoạt động mua vào, như động thái các nhà giao dịch đã thực hiện liên tục kể từ giữa tháng 8", Han Tan, nhà phân tích thị trường chính tại Exinity Group cho biết.
Tính từ đầu năm đến nay, giá vàng tăng 21% và đạt mức cao kỷ lục 2.531,6 USD/ounce vào ngày 20/8/2024. Lãi suất thấp làm giảm chi phí cơ hội nắm giữ vàng thỏi. Thị trường hiện đang dự đoán 67% khả năng Fed sẽ cắt giảm lãi suất 25 điểm cơ bản tại cuộc họp ngày 17-18 tháng 9 và 33% khả năng cắt giảm 50 điểm cơ bản, công cụ FedWatch của CME cho thấy.
Về những kim loại quý khác giá bạc giao ngay giảm 0,3% xuống 28,26 USD/unce, bạch kim tăng 0,2% lên 939,71 USD và giá palladium tăng 2,1% lên 966,55 USD.
Hội đồng đầu tư bạch kim thế giới cho biết thiếu hụt bạch kim toàn cầu vào năm 2024 sẽ cao gấp đôi so với dự kiến trước đây do dòng tiền đổ vào các quỹ giao dịch trao đổi mạnh và Trung Quốc tăng cường mua bạch kim. "Chúng tôi vẫn tin rằng giá bạch kim có khả năng sẽ tăng mạnh", Commerzbank cho biết trong một lưu ý.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng giảm do các quỹ bán tháo trong bối cảnh lo ngại về thực trạng nền kinh tế Trung Quốc và nhu cầu kim loại.
Kết thúc phiên, giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn London giảm 0,9% xuống 9.012 USD/tấn, sau khi tăng 1,1% trong phiên trước đó. Đồng trên sàn Comex của Mỹgiảm 1,3% xuống 4,05 USD/lb.
Dữ liệu của Trung Quốc vào thứ Ba đã bổ sung vào một loạt các dữ liệu yếu kém gần đây, với lượng đồng chưa gia công nhập khẩu vào nước này trong tháng 8 giảm xuống mức thấp nhất trong 16 tháng và tổng lượng nhập khẩu không đạt kỳ vọng, phản ánh nhu cầu yếu. "Câu chuyện kinh tế ở Trung Quốc chắc chắn là yếu, người tiêu dùng đang chán nản và có một lượng lớn bất động sản chưa bán được", Dan Smith, giám đốc nghiên cứu tại Amalgamated Metal Trading cho biết.
Một thương nhân châu Á dự kiến giá đồng sẽ giảm xuống 8.450 USD/tấn. Tuy nhiên, ông Smith cho biết bức tranh không hoàn toàn ảm đạm.
"Nhìn chung, chúng ta không nên quá bi quan về triển vọng của kim loại cơ bản. Mảng điện tử và quang điện mặt trời đang hoạt động khá tốt ở Trung Quốc", ông nói, ám chỉ đến công nghệ quang điện (PV) được sử dụng trong các tấm pin mặt trời. Nhu cầu tăng trung bình 16% trong sáu lĩnh vực kinh doanh điện tử tại Trung Quốc tính đến tháng 7, Smith nói thêm, và dự kiến giá đồng sẽ tăng vừa phải trong những tháng tới và kết thúc năm ở mức khoảng 9.500 đô la một tấn.
Về những kim loại cơ bản khác giá nickel trên sàn London, giá nickel giảm 1,1% xuống 15.735 USD/tấn – thấp nhất 6 tuần, kẽm giảm 1% xuống 2.703,5 USD/tấn sau khi chạm mức thấp nhất gần 4 tuần.
Đối với kim loại đen, giá quặng sắt trên sàn Đại Liên giảm do triển vọng nhu cầu thép của Trung Quốc yếu, mặc dù nguồn cung giảm và kỳ vọng về các biện pháp kích thích hơn nữa từ nước tiêu thụ hàng đầu.
Kết thúc phiên, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2025 trên sàn Đại Liên giảm 0,07% xuống 675 CNY (94,79 USD)/tấn; quặng sắt kỳ hạn tháng 10/2024 trên sàn Singapore giảm 1,17% xuống 90,7 USD/tấn.
Nhập khẩu quặng sắt của Trung Quốc trong tháng 8/2024 giảm 1,38% so với tháng 7/2024 và giảm 4,73% so với cùng tháng năm ngoái, do giá thép giảm và triển vọng nhu cầu ảm đạm.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép cuộn tăng 2,08%, thép cuộn cán nóng tăng 0,87%, thép cây tăng 0,36%, trong khi thép không gỉ giảm 1,45%.
Hầu hết các chuẩn thép trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải đều ghi nhận mức tăng. Theo đó, thép cuộn cán nóng tăng 1,75%, thép cây và thép cuộn tăng 1,6%, trong khi thép không gỉ giảm 0,4%.
Hầu hết các chuẩn thép trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải đều ghi nhận mức tăng. Cuộn cán nóng SHHCcv1 tăng 1,75%, thép cây SRBcv1 và thép dây SWRcv1 tăng khoảng 1,6%, trong khi thép không gỉ SHSScv1 giảm khoảng 0,4%.
Dữ liệu hải quan cho thấy nhập khẩu quặng sắt của Trung Quốc trong tháng 8 đã giảm 1,38% so với tháng 7 và giảm 4,73% so với cùng kỳ năm trước, do giá thép giảm và triển vọng nhu cầu ảm đạm đã làm giảm nhu cầu của người mua.
Tháng 9 theo thông lệ là mùa cao điểm tiêu thụ thép điển hình ở Trung Quốc, nhưng năm nay nhu cầu vẫn ở mức thấp vào tuần trước do lo ngại về nền kinh tế Trung Quốc và Mỹ, theo công ty tư vấn Mysteel. Lạm phát giá tiêu dùng của Trung Quốc trong tháng 8 tăng nhanh nhất trong nửa năm, trong khi tình trạng giảm phát giá sản xuất trở nên tồi tệ hơn.
Khởi đầu không mấy suôn sẻ trong nửa cuối năm đang gia tăng áp lực buộc nền kinh tế lớn thứ hai thế giới phải đưa ra nhiều chính sách hơn trong bối cảnh thị trường nhà ở suy thoái kéo dài, tình trạng thất nghiệp dai dẳng, nợ nần chồng chất và căng thẳng thương mại gia tăng.
Trong khi đó, tổng khối lượng quặng sắt vận chuyển từ 19 cảng và 16 công ty khai thác ở Úc và Brazil đến các điểm đến toàn cầu đã kết thúc 3 tuần tăng, trong giai đoạn từ ngày 2 đến ngày 8 tháng 9 giảm 10,8% xuống còn 25,8 triệu tấn, dữ liệu từ Mysteel cho thấy. Tổng lượng quặng sắt dự trữ trên khắp các cảng ở Trung Quốc tính đến ngày 6 tháng 9 giảm 0,2% so với tuần trước xuống còn 150,5 triệu tấn, dữ liệu của Steelhome cho thấy.
Nông sản: Giá đậu tương Mỹ giảm xuống mức thấp nhất 1 tuần do đánh giá tiến độ thu hoạch đậu tương của Mỹ tốt hơn dự kiến, thúc đẩy triển vọng gia tăng sản lượng và giảm bớt lo ngại về thời tiết khô. Giá ngô cũng giảm trong khi lúa mì tăng trước khi USDA công bố báo cáo cập nhật tháng 9.
Trên sàn Chicago, giá đậu tương kỳ hạn tháng 11/2024 giảm 20-3/4 US cent xuống 9,97-1/4 USD/bushel, sau khi giảm xuống 9,95-3/4 USD/bushel – thấp nhất kể từ ngày 3/9/2024; ngô kỳ hạn tháng 12/2024 giảm 3 US cent xuống 4,04-1/4 USD/bushel, trong khi lúa mì kỳ hạn tháng 12/2024 tăng 5-3/4 US cent lên 5,74-1/4 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 10/2024 trên sàn ICE giảm 0,36 US cent, tương đương 1,9%, xuống 18,47 US cent/lb, sau khi chạm mức thấp nhất 2 tuần (18,43 US cent/lb); đường trắng kỳ hạn tháng 10/2024 trên sàn London giảm 1,5% xuống 518,6 USD/tấn.
Triển vọng mùa màng cải thiện ở Ấn Độ, sau những trận mưa lớn, vẫn là một yếu tố tác động tiêu cực. Trong khi đó, dữ liệu về sản lượng đường ở Trung-Nam Brazil trong nửa cuối tháng 8 dự kiến sẽ được công bố trong vài ngày tới. Một cuộc khảo sát các nhà phân tích do S&P Global Commodity Insights thực hiện đã cho thấy đồng thuận trong dự báo về sản lượng đường Brazil trong giai đoạn nói trên ở mức 3,26 triệu tấn, giảm 6% so với cùng kỳ năm ngoái.
Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 11/2024 trên sàn London tăng 6 USD tương đương 0,1% lên 4.897 USD/tấn; cà phê arabica kỳ hạn tháng 12/2024 trên sàn ICE tăng 0,7% lên 2,472 USD/lb.
Giá cà phê robusta trên thị trường giao ngay của Brazil cao hơn giá arabica, một hiện tượng hiếm gặp, Cepea/Esalq, một trung tâm nghiên cứu tại Đại học Sao Paulo cho biết. “Kịch bản này đã được xác minh trong năm ngày liên tiếp, điều chưa từng xảy ra kể từ tháng 12 năm 2015", trung tâm này cho biết.
Giá cao su tại Nhật Bản tăng phiên thứ 3 liên tiếp lên mức cao nhất 1 tuần do thời tiết ẩm ướt tại một số khu vực sản xuất ở Trung Quốc và Thái Lan và một vài số liệu kinh tế Trung Quốc khả quan.
Kết thúc phiên, giá cao su kỳ hạn tháng 2/2025 trên sàn Osaka (OSE) tăng 3,9 JPY, tương đương 1,09%, lên 360,5 JPY (2,52 USD)/kg; cao su kỳ hạn tháng 1/2025 trên sàn Thượng Hải tăng 175 CNY, tương đương 1,05%, lên 16.780 CNY(2.357,24 USD)/tấn.
Giá cao su kỳ hạn tháng 10/2024 trên sàn Singapore giảm 0,3% xuống 183 US cent/kg.
Giá cao su thiên nhiên đang tăng tốc chủ yếu do lo ngại về nguồn cung trong mùa cao điểm sản xuất thông thường, vì các quỹ đầu cơ đang đặt cược vào sự gián đoạn nguồn cung do Siêu bão Yagi và những trận mưa lớn bất thường xảy ra sau đó ở Trung Quốc và một số vùng của Thái Lan, theo Jom Jacob, nhà phân tích chính tại công ty phân tích Ấn Độ What Next Rubber.
Cơ quan khí tượng của nhà sản xuất hàng đầu Thái Lan đã cảnh báo về những trận mưa lớn có thể gây ra lũ quét từ ngày 13 đến ngày 15 tháng 9.
Dữ liệu thương mại của Trung Quốc cho thấy sự tăng tốc bất ngờ trong xuất khẩu đã mang lại sự lạc quan về nền kinh tế Trung Quốc và triển vọng nhu cầu của nước này, Jacob cho biết.
Giá hàng hóa thế giới:

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

66,90

+1,15

+1,75%

Dầu Brent

USD/thùng

70,26

+1,07

+1,55%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

189,84

+2,84

+1,52%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,24

+0,01

+0,31%

Dầu đốt

US cent/gallon

207,77

+1,97

+0,96%

Vàng (Comex)

USD/ounce

2.552,40

+9,30

+0,37%

Vàng giao ngay

USD/ounce

2.523,45

+6,72

+0,27%

Bạc (Comex)

USD/ounce

29,10

+0,48

+1,68%

Bạch kim giao ngay

USD/ounce

945,23

+1,95

+0,21%

Đồng (Comex)

US cent/lb

415,45

+5,65

+1,38%

Đồng (LME)

USD/tấn

9.026,00

-71,00

-0,78%

Nhôm (LME)

USD/tấn

2.336,50

-14,00

-0,60%

Kẽm (LME)

USD/tấn

2.712,00

-19,00

-0,70%

Thiếc (LME)

USD/tấn

30.550,00

-268,00

-0,87%

Ngô (CBOT)

US cent/bushel

406,75

+2,50

+0,62%

Lúa mì (CBOT)

US cent/bushel

578,50

+4,25

+0,74%

Lúa mạch (CBOT)

US cent/bushel

367,00

-0,50

-0,14%

Gạo thô (CBOT)

USD/cwt

14,91

+0,02

+0,10%

Đậu tương (CBOT)

US cent/bushel

1.006,75

+9,50

+0,95%

Khô đậu tương (CBOT)

USD/tấn

320,60

+3,10

+0,98%

Dầu đậu tương (CBOT)

US cent/lb

40,10

+0,47

+1,19%

Hạt cải (ICE)

CAD/tấn

576,10

+6,10

+1,07%

Cacao (ICE)

USD/tấn

7.271,00

-204,00

-2,73%

Cà phê (ICE)

US cent/lb

247,20

+1,80

+0,73%

Đường thô (ICE)

US cent/lb

18,88

+0,10

+0,53%

Nước cam cô đặc đông lạnh (ICE)

US cent/lb

501,80

+12,65

+2,59%

Bông (ICE)

US cent/lb

69,03

+0,82

+1,20%

Lông cừu (ASX)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ (CME)

USD/1000 board feet

--

--

--

Cao su Singapore

US cent/kg

182,20

-0,40

-0,22%

Ethanol (CME)

USD/gallon

2,16

0,00

0,00%

 

 

Nguồn: VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)