Năng lượng: Giá dầu giảm gần 5% trong tuần
Thị trường dầu mỏ thế giới tuần qua biến động mạnh. Phiên cuối tuần, giá giảm và tính chung cả tuần giảm gần 5% do triển vọng tăng trưởng toàn cầu suy yếu, lãi suất tăng và Trung Quốc phong tỏa chống Covid-19 ảnh hưởng tới nhu cầu tiêu thụ, mặc dù việc Liên minh châu Âu (EU) cân nhắc một lệnh cấm nhập khẩu dầu từ Nga đã hạn chế đà giảm.
Kết thúc phiên này, giá dầu Brent giảm 1,68 USD hay 1,6% xuống 106,65 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ giảm 1,72 USD hay 1,7% xuống 102,07 USD/thùng. Tính chung cả tuần, giá cả 2 loại giảm khoảng 5%, lùi xa khỏi mức cao kỷ lục chưa từng có kể từ 2008, là 139 USD/thùng, đạt được vào tháng trước.
Quỹ Tiền tệ Quốc tế trong tuần này đã hạ về dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2022, và cho biết có thể giảm tiếp nếu các nước Phương Tây mở rộng các biện pháp trừng Nga khiến giá năng lượng tăng cao.
Trong khi đó, nguồn tin từ Chính phủ Đức cho hay, nước này đã hạ dự báo tăng trưởng kinh tế năm 2022 từ 3,6% xuống 2,2%.
Tại Trung Quốc, nhu cầu xăng, dầu diesel và nhiên liệu hàng không trong tháng 4/2022 dự kiến sụt giảm 20% so với cùng kỳ năm trước, khi các thành phố lớn của nước này, bao gồm Thượng Hải, đang bị phong tỏa vì đại dịch.
Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) Jerome Powell cho biết việc nâng lãi suất thêm 0,5 điểm phần trăm “sẽ được thảo luận” tại cuộc họp chính sách tiếp theo của Fed vào tháng Năm tới, thúc đẩy đồng USD tiến lên mức cao nhất trong 2 năm.
Đồng USD mạnh hơn làm dầu và các hàng hóa khác trở nên đắt đỏ hơn đối với nguời nắm giữ những đồng tiền khác.
Về phía nguồn cung, công ty đường ống Caspian Nga-Kazakhstan dự khiến khôi phục xuất khẩu hoàn toàn từ ngày 22/4 sau gần 30 ngày gián đoạn.
Theo dữ liệu từ công ty dịch vụ dầu khí Baker Hughes, số giàn khoan dầu tại Mỹ trong tuần này đã tăng thêm 1 giàn, lên 549 giàn, mức cao nhất kể từ tháng 4/2020.
Trong khi đó, một nguồn tin từ châu Âu cho hay, Ủy ban châu Âu (EC) đang đẩy nhanh mức độ sẵn có của các nguồn cung năng lượng thay thế. Hà Lan cho biết có kế hoạch ngừng sử dụng nhiên liệu từ Nga vào cuối năm nay.
Morgan Stanley đã nâng dự báo giá dầu Brent trong quý III/2022 thêm 10 USD, lên 130 USD/thùng, với lý do “thâm hụt nguồn cung lớn hơn dự kiến” trong năm nay do sự sụt giảm nguồn cung từ Nga và Iran.
Các nhà máy lọc dầu của Châu Âu đã xử lý 9,04 triệu thùng dầu thô mỗi ngày trong tháng 3, giảm 4% so với tháng trước và cao hơn 4,8% so với một năm trước, theo số liệu của Euroilstock.
Kim loại quý: Giá vàng giảm
Giá vàng giảm gần 1% trong phiên cuối tuần, tính chung cả tuần giảm mạnh nhất kể từ giữa tháng 3 do dấu hiệu Cục dự trữ Liên bang Mỹ sẽ thắt chặt chính sách nhanh hơn dự kiến khiến lợi suất trái phiếu và USD đều tăng.
Theo đó, giá vàng giao ngay giảm 0,9% trong phiên cuối tuần, xuống 1.934,06 USD/ounce, trước đó giá đã chạm mức thấp nhất trong hai tuần. Tính chung cả tuần, giá vàng giao ngay giảm 2,1%.
Giá vàng giao sau cũng giảm 0,7% trong phiên cuối tuần, xuống 1.934,3 USD/ounce.
Jim Wycoff, chuyên gia phân tích cấp cao tại Kitco, nhận định: “Vàng- kim loại trú ẩn an toàn- đang cần một yếu tố cơ bản mới khiến nhà đầu tư gia tăng lo ngại, nhưng điều đó không xảy ra. Sự đi ngang buồn tẻ mà chúng ta đang thấy đã dẫn đến một số hoạt động bán ra dựa trên biểu đồ kỹ thuật”.
Chủ tịch Fed Jerome Powell ngày 21/4 cho biết việc nâng lãi suất Mỹ thêm 0,5 điểm phần trăm sẽ “được thảo luận” khi cơ quan này nhóm họp vào tháng Năm tới. Điều này cho thấy ngân hàng này có thể hành động mạnh tay hơn để kiềm chế lạm phát gia tăng. Quan điểm “diều hâu” này đã giúp lợi suất trái phiếu Chính phủ Mỹ kỳ hạn 10 năm nới rộng đà tăng và cũng thúc đẩy chỉ số đồng USD cao hơn.
Trên thị trường vàng hàng thực, các đại lý tại Ấn Độ đã giảm chiết khấu trong tuần này khi nhu cầu tăng nhẹ sau khi giá giảm, trong khi diễn biến ở Trung Quốc- thị trường tiêu thụ vàng hàng đầu thế giới vẫn còn im ắng vì dịch COVID-19.
Về những kim loại quý khác, giá bạc trong phiên cuối tuần giảm 1,5%, xuống 24,26 USD/ounce, ghi nhận tuần giảm giá mạnh nhất kể từ cuối tháng 1/2022 khi mất 5%; giá bạch kim cũng hạ 3,8%, xuống 931,42 USD/ounce; trong khi palladium giảm 1,7%, xuống 2.381,44 USD/ounce.
Kim loại công nghiệp: Giá giảm trong tuần
Phiên cuối tuần, giá hầu hết các kim loại cơ bản đều giảm do lo ngại việc thắt chặt chính sách tiền tệ nhanh chóng và việc phong tỏa Covid của Trung Quốc sẽ làm giảm tăng trưởng kinh tế và nhu cầu kim loại. Những hạn chế Covid tại nước tiêu thụ kim loại hàng đầu thế giới, Trung Quốc cũng gây sức ép lên giá kim loại.
Sản lượng công nghiệp tại Thượng Hải giảm trong tháng 3, tháng sụt giảm đầu tiên trong hai năm sau khi các biện pháp phong tỏa nghiêm ngặt đã làm dừng sản xuất ở một số nhà máy.
Cũng đang gây sức ép lên thị trường là USD mạnh lên, khiến các kim loại được định giá bằng đồng bạc xanh này đắt hơn cho người mua bằng những đồng tiền khác.
Theo đó, giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn giao dịch kim loại London (LME) giảm 1,8% xuống 10.097 USD/tấn, mức yếu nhất kể từ ngày 17/3 và thiết lập tuần sụt giảm thứ ba. Dự trữ đồng tại LME đang tăng cũng là yếu tố giảm giá, trong tháng qua dự trữ tăng 72%.
Peru cho biết một nhóm cộng đồng bản địa đã kết thúc biểu tình phản đối mỏ đồng Cuajone của tập đoàn Southern Copper mà đã buộc mỏ này phải dừng sản xuất trong hơn 50 ngày.
Thị trường đồng đã tinh luyện trên toàn cầu dư thừa 16.000 tấn trong tháng 1 so với thiếu hụt 74.000 tấn trong tháng 12/2021, theo Tổ chức Nghiên cứu Đồng Quốc tế.
Giá quặng sắt Đại Liên giảm trong phiên cuối tuần và có tuần giảm lần đầu tiên trong hai tháng, do lo lắng về nhu cầu suy yếu tại Trung Quốc bất chấp những nguy cơ về nguồn cung.
Cụ thể, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên giảm 2,4% xuống 881 CNY(136,16 USD)/tấn, sau khi chạm mức 876 CNY trước đó trong phiên, mức thấp nhất kể từ ngày 14/4. Tính chung cả tuần giá giảm 2,6%. Trên sàn giao dịch Singapore, hợp đồng quặng sắt kỳ hạn tháng 5 tăng 0,4% lên 151,8 USD/tấn, nhưng cũng có tuần giảm giá. Giá quặng sắt nhập khẩu (hàm lượng sắt 62%) giao ngay tại cảng biển Trung Quốc giảm 2,9% trong tuần này xuống 152 USD/tấn, tính tới ngày 21/4, theo công ty tư vấn số liệu SteelHome.
Trung Quốc cam kết giảm sản lượng thép trong năm nay phù hợp với mục tiêu giảm khí thải carbon. Triển vọng nhu cầu cũng u ám bởi nguy cơ bùng phát Covid-19 tái diễn ở Trung Quốc, đặc biệt tại các trung tâm sản xuất thép. Tuy nhiên sản lượng quặng sắt cũng giảm theo báo cáo của các nhà sản xuất lớn. Công ty BHP Group cảnh báo tiếp tục giảm sản lượng quặng sắt.
Các thương gia vẫn hy vọng các kích thích kinh tế bổ sung để hỗ trợ nền kinh tế Trung Quốc sẽ thúc đẩy sản lượng thép khi những hạn chế về Covid-19 được dỡ bỏ.
Được biết, Ngân hàng trung ương Trung Quốc đã cam kết đưa ra chính sách hỗ trợ đặc biệt cho các công ty nhỏ và các lĩnh vực bị ảnh hưởng bởi Covid-19.
Nông sản: Giá biến động
Trong phiên cuối tuần, giá đậu tương CBOT kỳ hạn tháng 7 đóng cửa giảm 31-1/2 US cent xuống 16,88 USD/bushel, quay trở lại giảm sau khi tăng lên mức cao nhất hai tháng tại 17,34 USD/bushel. Ngô kỳ hạn tháng 7 đóng cửa giảm 6-1/4 US cent xuống 7,89 USD/bushel.
Lúa mì CBOT kỳ hạn tháng 7 giảm 1-1/4 US cent xuống 10,75-1/4 USD/bushel. Lúa mì giảm sau một phiên biến động do các nhà môi giới cân nhắc việc dự trữ ngũ cốc toàn cầu thắt chặt với nhu cầu xuất khẩu lúa mì chậm chạp của Mỹ.
Đáng chú ý, giá dầu đậu tương Mỹ tăng vọt lên mức cao kỷ lục sau khi Indonesia cấm xuất khẩu dầu cọ, một loại dầu thực vật cạnh tranh, nhưng đậu tương và ngô giảm do chốt lời.
Indonesia, nước sản xuất và xuất khẩu dầu cọ hàng đầu thế giới cấm xuất khẩu từ ngày 28/4 để giải quyết việc tăng giá trong nước. Việc nới lỏng những hạn chế Covid-19 đã khiến nhu cầu dầu thực vật cho lương thực và nhiên liệu sinh học tăng vọt.
Dầu đậu tương kỳ hạn tháng 7 trên sàn giao dịch Chicago đóng cửa tăng 0,87 US cent lên 80,51 US cent/lb sau khi đạt 83,21 US cent, mức giá cao nhất từ trước tới nay.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 5 đóng cửa phiên cuối tuần giảm 0,63 US cent hay 3,2% xuống 19,24 US cent/lb, sau khi có lúc giảm xuống 19,21, mức thấp nhất 3 tuần; đường trắng kỳ hạn tháng 8 giảm 10,6 USD hay 2% xuống 530,5 USD/tấn.
Các đại lý cho biết sản lượng lớn hơn dự kiến tại Ấn Độ có thể dẫn tới dư thừa đường nhẹ trong niên vụ 2021/22. Kết quả thăm dò của Reuters hồi tháng 2 cho thấy các nhà phân tích đều đồng thuận mức thiếu hụt toàn cầu là 1,25 triệu tấn trong niên vụ 2021/22.
Sản lượng đường của Brazil dự kiến tăng 2,9% trong niên vụ mới lên 36,37 triệu tấn do các cánh đồng phục hồi một phần từ thời tiết bất lợi trong vụ trước.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 7 giảm 0,95 US cent hay 0,4% xuống 2.2715 USD/lb sau khi tăng gần 4% trong phiên trước đó; cà phê robusta giao cùng kỳ hạn tăng 2 USD hay 0,1% lên 2.116 USD/tấn.
Các đại lý lưu ý rằng đồng nội tệ của Brazil giảm giá mạnh trong ngày 22/4, giảm 3,5% so với USD, một yếu tố có thể thu hút nông dân bán ra tại nước trồng cà phê lớn nhất thế giới này.
Tuy nhiên, các đại lý lưu ý rằng thời tiết vẫn khô tại hầu hết các khu vực cà phê của Brazil, khả năng làm giảm kích cỡ hạt, mặc dù có một số mưa tại Parama trong vài ngày tới.
Giá cao su Nhật Bản có tuần giảm lần đầu tiên trong 6 tuần, theo su hướng thị trường yếu tại Thượng Hải, trong khi giá tiêu dùng lõi trong nước đang tăng làm giảm tâm lý.
Trong phiên cuối tuần, hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 9 trên sàn giao dịch Osaka đóng cửa giảm 6,4 JPY hay 2,4% xuống 255 JPY (1,99 USD)/kg, sau khi chạm mức thấp nhất kể từ ngày 30/3 tại 253,5 JPY trong phiên này. Tính chung cả tuần cao su giảm 4%.
Chỉ số giá tiêu dùng lõi của Nhật Bản tháng 3 tăng với tốc độ nhanh nhất trong hơn 2 năm, làm tăng lo lắng rằng chi phí lương thực và năng lượng cao có thể ngày càng ảnh hưởng tới sức mua của các hộ gia đình.
Nhu cầu cao su tự nhiên tại Thượng Hải vẫn yếu. Các nhà giao dịch tại thị trường Thượng Hải theo xu hướng giảm giá do dự đoán phong tỏa tại thành phố này sẽ kéo dài.Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 9 tại Thượng Hải đã giảm 315 CNY xuống 13.015 CNY (2.011,22 USD)/tấn, sau khi chạm mức thấp nhất kể từ ngày 22/7 tại 13.101 CNY. Dự trữ cao su tại kho Thượng Hải tăng 0,5% so với một tuần trước.
Giá hàng hóa thế giới
|
ĐVT
|
Giá 14/4
|
Giá 22/4
|
22/4 so với 21/4
|
22/4 so với 21/4 (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
106,95
|
97,89
|
-0,65
|
-0,66%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
111,70
|
101,87
|
-0,45
|
-0,44%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
78.990,00
|
74.340,00
|
-1.240,00
|
-1,64%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
7,30
|
6,88
|
+0,21
|
+3,09%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
338,14
|
322,18
|
-1,80
|
-0,56%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
385,48
|
416,00
|
+6,91
|
+1,69%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
1.119,75
|
1.101,50
|
+36,00
|
+3,38%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
80.180,00
|
79.680,00
|
0,00
|
0,00%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.974,90
|
1.906,60
|
+10,60
|
+0,56%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
8.003,00
|
7.803,00
|
-9,00
|
-0,12%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
25,79
|
23,87
|
+0,14
|
+0,57%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
105,20
|
98,00
|
-0,60
|
-0,61%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
993,08
|
928,00
|
+3,85
|
+0,42%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
2.365,62
|
2.163,75
|
+16,12
|
+0,75%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
474,10
|
449,00
|
+1,80
|
+0,40%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
10.315,00
|
9.769,00
|
-341,00
|
-3,37%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
3.285,50
|
3.090,50
|
-155,00
|
-4,78%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
4.412,00
|
4.168,50
|
-266,00
|
-6,00%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
43.043,00
|
39.858,00
|
-2.307,00
|
-5,47%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
783,75
|
804,75
|
+6,75
|
+0,85%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
1.104,50
|
1.096,00
|
+23,50
|
+2,19%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
737,75
|
709,50
|
-4,75
|
-0,67%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
16,20
|
16,67
|
+0,12
|
+0,69%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.665,25
|
1.688,75
|
+13,50
|
+0,81%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
455,70
|
449,70
|
+4,10
|
+0,92%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
76,89
|
80,81
|
+0,73
|
+0,91%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
1.032,80
|
1.086,50
|
+4,70
|
+0,43%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.636,00
|
2.508,00
|
+21,00
|
+0,84%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
223,75
|
221,95
|
+1,25
|
+0,57%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
20,03
|
18,97
|
+0,09
|
+0,48%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
181,05
|
172,90
|
-3,10
|
-1,76%
|
Bông
|
US cent/lb
|
140,71
|
135,44
|
+0,03
|
+0,02%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
889,00
|
914,00
|
-21,60
|
-2,31%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
172,90
|
162,40
|
+1,70
|
+1,06%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
2,16
|
2,16
|
0,00
|
0,00%
|