Nam Phi – Nỗ lực đưa than ra thế giới
Theo các số liệu thống kê từ Bộ Năng lượng Mỹ, than đá chiếm khoảng 72% nguồn cung năng lượng chính ở Nam Phi, và phần lớn được sử dụng để phát điện. Ngoài ra, than đá được sử dụng để sản xuất hầu như tất cả các sắt không tái chế. Than có ưu điểm là số lượng dồi dào, giá cả phải chăng, dễ vận chuyển, bảo quản và sử dụng. 
Nam Phi sở hữu khoảng 3,5% tài nguyên than của thế giới. Hằng năm, nước này sản xuất 3,3% và xuất khẩu khoảng 6% tổng kim ngạch than toàn cầu. Than đá cũng là nguồn cung cấp năng lượng chính cho Nam Phi. Hơn 90% điện năng của đất nước và khoảng 30% nhiên liệu lỏng được sản xuất từ than đá. Than cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc cung cấp cho ngành công nghiệp hóa chất Nam Phi và là một thành phần của ngành sản xuất thép.
Có 19 mỏ than trong cả nước và chúng chủ yếu nằm ở phần đông bắc của đất nước này. Các mỏ than đang được khai thác bao gồm Ermelo, Highveld, Kangwane, Kliprivier, Nongoma, Soutpansberg, Utrecht, Vereeniging-Sasolburg, Vryheid, Waterberg (Ellisras) và Witbank. Phần lớn than đến từ Witbank và Highveld các mỏ than, chiếm khoảng 75% sản lượng của Nam Phi. Tuy nhiên, các nguồn này sẽ cạn kiệt trong thế kỷ tới. Trong khi đó, mỏ than Waterberg ở tỉnh Limpopo chứa trữ lượng khổng lồ và là khu vực tiếp theo sẽ cung cấp nguyên liệu dồi dào cho Nam Phi trong tương lai. Mặc dù Waterberg có diện tích rất nhỏ so với những mỏ than như Witbank và Highveld, nhưng nó có tổng chiều dày vỉa khoảng 110m, điều kiện lý tưởng biến Waterberg là nơi có trữ lượng than đá lớn.
Phương pháp khai thác than kinh tế nhất từ các vỉa than phụ thuộc vào độ sâu và chất lượng của các đường nối, cũng như các yếu tố địa chất và môi trường. Khai thác trên bề mặt (lộ thiên) và khai thác sâu dưới lòng đất là hai phương pháp khai thác cơ bản được sử dụng ở Nam Phi. Khoảng 51% hoạt động khai thác than ở Nam Phi được thực hiện dưới lòng đất. Khi các địa tầng bên trên không bất cứ cản trở nào, thì toàn bộ quá trình khai thác có thể diễn ra dưới lòng đất.
Trên toàn cầu, than vẫn là nguồn cung năng lượng chính. Tuy nhiên, thị trường thương mại than bằng đường biển đã có lịch sử phát triển liên tục và mạnh mẽ trong những năm gần đây. Khoảng 17% nhu cầu than toàn cầu được giao dịch quốc tế vào năm 2015. Thị trường xuất khẩu than của Nam Phi được chia thành hai thị trường theo khu vực là Đại Tây Dương và Thái Bình Dương. Thị trường Đại Tây Dương bao gồm các nước nhập khẩu ở Tây Âu, đáng chú ý là Anh, Đức và Tây Ban Nha. Thị trường Thái Bình Dương bao gồm các nước thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), các nhà nhập khẩu châu Á, chủ yếu là Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan (Trung Quốc). Thị trường Thái Bình Dương hiện chiếm khoảng 60% thương mại than thế giới.
Trong một báo cáo gần đây, nhà môi giới tàu biển Banchero Costa cho biết, Nam Phi là nước xuất khẩu than lớn thứ tư trên thế giới, sau Australia, Indonesia và Nga. Phần lớn than của Nam Phi được xuất khẩu qua Cảng than Richards Bay (RBCT), trong khi một lượng nhỏ được vận chuyển qua Durban hoặc Maputo ở Mozambique. Trong những năm gần đây, khoảng 60% lượng than ở Nam Phi được xuất khẩu cho lưu vực Thái Bình Dương. Theo Mining Weekly, năm 2021 RBCT xuất khẩu 58,72 triệu tấn than, trong đó hơn 86% được bán cho các nước châu Á như Ấn Độ, Pakistan và Trung Quốc; 5,3% sang Mauritius và Morocco; và số còn lại là Các tiểu vương quốc Arab thống nhất, Israel, Hà Lan và Italy.
Australia – Quốc gia giàu tài nguyên than giá rẻ
Hiện nay, Australia đang là một trong những quốc gia có tổng trữ lượng than nhiều nhất thế giới. Theo thống kê, tổng trữ lượng than đá Australia là 144.818 triệu tấn, chiếm 14% tổng trữ lượng than toàn cấu (đứng thứ 3 thế giới). Than đá Australia có năng suất toả nhiệt cao khi đốt cùng các nguyên liệu khác nên được ứng dụng phổ biến trong lò hơi hoặc nhà máy nhiệt điện.
Khai khoáng là một trong những ngành công nghiệp xuất hiện sớm nhất ở Australia. Quan trọng nhất phải kể tới ngành khai thác than đá. Than được khai thác ở tất cả các bang của nước này. 75% sản lượng than được xuất khẩu, chủ yếu là tới thị trường Đông Á. Khai khoáng đóng góp 5.6% vào GDP, nhưng lại chiếm tới 35% kim ngạch xuất khẩu của Australia.
Trong năm 2021, nước này xuất khẩu ước tính khoảng 198,2 triệu tấn than nhiệt, tăng từ chỉ 100 triệu tấn trong năm 2002-2003. Giá năng lượng và hàng hóa toàn cầu đã tăng trong năm nay sau khi Nga tiến hành chiến dịch quân sự đặc biệt tại Ukraine, kéo theo tình trạng thiếu hụt năng lượng. Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Nước Australia Keith Pitt cho biết: “Than đá chỉ trở thành mặt hàng thứ hai của Australia sau quặng sắt để vượt qua mốc xuất khẩu 100 tỷ AUD hằng năm. Giá than nhiệt và than luyện kim của Australia đạt mức cao kỷ lục vào tháng 1-2022, do thời tiết xấu ảnh hưởng đến quy trình sản xuất và vận chuyển. Thu nhập từ xuất khẩu than được dự báo sẽ tăng lên khoảng 110 tỷ AUD trong giai đoạn 2021-2022.
Ở Australia, gần 80% than được sản xuất từ các mỏ lộ thiên, trái ngược với các quốc gia khác trên thế giới với chỉ 40% sản lượng than được khai thác lộ thiên. Chi phí khai thác lộ thiên thấp hơn so hơn khai thác dưới lòng đất và cho phép thu hồi tới 90% tài nguyên. Nhiều luống than nâu nằm sát bề mặt, dày hàng trăm mét nên có thể khai thác dễ dàng và chi phí rẻ, từ đó có giá cạnh tranh hơn so với các nước.
Do sự kết hợp của địa lợi và địa chất, ngoài việc phát triển và quản lý thận trọng, ngành công nghiệp than nhiệt của Australia có một số lợi thế chính, bao gồm việc sử dụng các công nghệ tiên tiến, môi trường sản xuất ổn định, các cơ sở đường sắt và cảng đẳng cấp thế giới.
Việt Nam nỗ lực tìm nguồn cung ứng than từ Australia, Nam Phi
Trước việc thiếu than cho sản xuất điện, Việt Nam dự kiến nhập khoảng 5 triệu tấn than từ Australia. Tại buổi làm việc với Đại sứ Australia tại Việt Nam Robyn Mudie ngày 1/4, Bộ trưởng Công Thương Nguyễn Hồng Diên đã đề nghị Australia cân đối sản lượng than trong nước để cung cấp cho Việt Nam. Bộ trưởng mong Đại sứ sẽ kết nối doanh nghiệp Việt với các doanh nghiệp, cơ quan quản lý phía Australia, để hai bên có thể ký hợp đồng mua bán, đưa than về Việt Nam ngay trong tháng 4 với mức giá hợp lý. Trước việc thiếu than cho sản xuất điện, Việt Nam dự kiến nhập khoảng 5 triệu tấn than/năm từ Australia.
Trước đề nghị của Việt Nam, Đại sứ Robyn Mudie khẳng định Australia có đủ năng lực sản xuất, khai thác, chế biến ... để cung cấp than cho Việt Nam.
Ngoài Australia, Bộ Công Thương cũng tìm thêm nguồn nhập khẩu than cho điện từ Nam Phi. Làm việc với Đại sứ Nam phi tại Việt Nam, Mpetjane Kgaogelo Lekgoro, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên đề nghị Đại sứ hỗ trợ giới thiệu, kết nối các đối tác tiềm năng của Nam Phi trong lĩnh vực than, khoáng sản với các doanh nghiệp lớn của Việt Nam như Tập đoàn Công nghiệp Than và Khoáng sản Việt Nam, Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Tổng công ty Đông Bắc… để đi đến ký kết hợp đồng, đưa các chuyến hàng than về Việt Nam ngay trong tháng 4, tháng 5 này.
Đại sứ Nam Phi cam kết sẽ trao đổi ngay với Bộ Tài nguyên và Khoáng sản Nam Phi về nội dung cung ứng than cho Việt Nam cũng như hỗ trợ kết nối doanh nghiệp xuất nhập khẩu than của hai nước. Đại sứ Mpetjane Kgaogelo Lekgoro cũng đề nghị phía Việt Nam tạo thuận lợi để một số mặt hàng có thế mạnh của Nam Phi có thể tiếp cận thị trường Việt Nam.
Trước đó, Bộ Công Thương đã yêu cầu Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin) và Tổng Công ty Đông Bắc thực hiện ngay các biện pháp đảm bảo năng lực sản xuất than, thực hiện mọi giải pháp đảm bảo cung cấp đủ than cho các nhà máy nhiệt điện theo đúng Hợp đồng mua bán, cung cấp than đã ký. Trong bất luận trường hợp nào cũng không được để thiếu than cho sản xuất điện theo cam kết tại Hợp đồng mua bán, cung cấp than đã ký. Bộ cũng yêu cầu Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) chỉ đạo Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Quốc gia có giải pháp điều độ phù hợp với tình hình thực tế cũng như thông báo kế hoạch huy động cập nhật hằng tháng cho chủ đầu tư các nhà máy nhiệt điện than để kịp thời thu xếp nguồn than cho sản xuất điện.

Nguồn: congthuong.vn