Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, trong 10 tháng đầu năm 2011, Việt Nam nhập của Trung Quốc gần 19,58 tỉ USD các loại hàng hóa; chiếm khoảng 1/4 (84,6 tỉ USD) tổng kim ngạch nhập khẩu cả nước, tăng 23,36% so với cùng kỳ năm 2010; trong đó riêng tháng 10 nhập khẩu từ thị trường này giảm nhẹ 0,94% so với tháng 9, đạt 2,13 tỷ USD, nhưng vẫn tăng 23,56% so với cùng tháng năm 2010.
Nhóm hàng mà Việt Nam nhập của Trung Quốc trên 1 tỉ USD gồm: 2,33 tỉ USD vải; 1,75 tỉ máy tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; 1,29 tỉ điện thoại các loại và linh kiện; 1,2 tỉ sắt thép; 1,05 tỉ xăng dầu. Đáng chú ý là máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng được nhập từ Trung Quốc lên tới 4,17 tỉ USD, so với các thị trường khác như Nhật Bản là 2,2 tỉ; Hàn Quốc 1 tỉ; Đức 826 triệu; Mỹ 640 triệu. Trong khi, máy móc giá rẻ Trung Quốc được các chuyên gia cảnh báo không phải là công nghệ nguồn, lạc hậu và khả năng gây ô nhiễm cao.
Như vậy, thị trường nhập khẩu lớn nhất của nước ta trong 10 tháng năm 2011 vẫn tiếp tục là Trung Quốc.
Những nhóm hàng chủ yếu nhập khẩu từ Trung Quốc 10 tháng đầu năm 2011
ĐVT: USD
Thị trường
|
T10/2011
|
10T/2011
|
Tăng, giảm T10/2011 so với T9/2011
|
Tăng, giảm T10/2011 so với T10/2010
|
Tăng, giảm 10T/2011 so với cùng kỳ
|
Tổng cộng
|
2.133.373.376
|
19.576.949.801
|
-0,94
|
+23,56
|
+23,36
|
Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác
|
385.124.598
|
4.173.294.075
|
-15,87
|
-1,63
|
+16,33
|
Vải các loại
|
242.845.735
|
2.328.839.042
|
+18,42
|
+32,25
|
+30,94
|
Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện
|
249.947.633
|
1.749.751.911
|
+17,52
|
+56,39
|
+33,54
|
Điện thoại các loại và linh kiện
|
164.328.465
|
1.291.827.108
|
-23,98
|
*
|
*
|
sắt thép
|
109.023.909
|
1.204.419.722
|
+5,16
|
-13,45
|
-5,79
|
Xăng dầu các loại
|
104.092.323
|
1.048.558.814
|
-28,08
|
+59,53
|
+12,92
|
Phân bón
|
109.723.285
|
680.190.290
|
-8,06
|
+115,95
|
+99,95
|
Nguyên phụ liệu dệt may da giày
|
68.018.432
|
675.360.987
|
+2,56
|
+24,18
|
+27,76
|
Hoá chất
|
51.472.811
|
554.161.014
|
+19,73
|
+26,04
|
+40,36
|
Sản phẩm từ sắt thép
|
48.978.999
|
465.156.950
|
-10,80
|
+0,57
|
+20,48
|
Sản phẩm hoá chất
|
42.702.444
|
376.212.339
|
+20,94
|
+24,49
|
+17,87
|
Sản phẩm từ chất dẻo
|
41.861.261
|
352.200.386
|
+12,45
|
+40,52
|
+22,76
|
Xơ sợi dệt các loại
|
27.641.273
|
284.739.444
|
+30,14
|
+35,70
|
+52,87
|
Chất dẻo nguyên liệu
|
27.058.843
|
281.082.714
|
+1,90
|
+29,26
|
+66,33
|
Khí đốt hoá lỏng
|
20.080.117
|
246.961.898
|
-3,05
|
-16,32
|
+44,09
|
Kim loại thường khác
|
27.907.131
|
240.146.977
|
+8,50
|
+65,08
|
+30,78
|
Thuốc trừ sâu và nguyên liệu
|
23.891.148
|
217.942.936
|
+20,55
|
+1,11
|
+27,67
|
Linh kiện phụ tùng ô tô
|
15.720.914
|
188.279.582
|
+34,70
|
-18,33
|
-22,55
|
Dây điện và dây cáp điện
|
23.343.031
|
181.548.428
|
-3,31
|
+50,73
|
+29,80
|
Ô tô nguyên chiéc các loại (chiếc)
|
12.648.702
|
167.893.030
|
-9,55
|
+58,75
|
+37,88
|
Gỗ và sản phẩm gỗ
|
16.373.835
|
145.230.555
|
+7,91
|
+22,92
|
+6,79
|
Linh kiện phụ tùng xe máy
|
15.118.670
|
122.058.428
|
+32,11
|
+79,88
|
+18,53
|
Hàng rau quả
|
18.064.912
|
115.156.467
|
+14,01
|
-2,90
|
-8,44
|
Sản phẩm từ giấy
|
12.696.590
|
106.202.878
|
+3,56
|
+35,63
|
+13,21
|
Sản phẩm khác từ dầu mỏ
|
14.360.858
|
99.283.540
|
+111,92
|
+48,91
|
+15,99
|
Hàng điện gia dụng và linh kiện
|
9.739.974
|
92.314.334
|
+14,35
|
*
|
*
|
Sản phẩm từ kim loại thường khác
|
8.294.131
|
90.979.494
|
-5,43
|
+26,24
|
+38,98
|
Thức ăn gia súc và nguyên liệu
|
8.933.264
|
83.779.409
|
+4,15
|
+62,09
|
+9,78
|
Sản phẩm từ cao su
|
10.127.327
|
77.077.911
|
+7,64
|
+79,00
|
+36,88
|
Nguyên phụ liệu dược phẩm
|
5.251.398
|
64.859.882
|
+19,59
|
-6,63
|
-5,61
|
Giấy các loại
|
5.577.162
|
52.830.370
|
+3,11
|
+40,20
|
+10,01
|
Cao su
|
4.696.856
|
52.246.847
|
-15,66
|
+15,10
|
+41,59
|
Dược phẩm
|
2.479.374
|
25.614.225
|
-7,77
|
-1,12
|
+7,51
|
Nguyên phụ liệu thuốc lá
|
1.688.329
|
22.329.706
|
-41,20
|
-25,06
|
-58,31
|
Phương tiện vận tải phụ tùng khác
|
6.103.106
|
17.418.011
|
+933,84
|
-79,85
|
-63,87
|
Hàng thuỷ sản
|
1.542.708
|
16.599.127
|
+20,42
|
+83,33
|
+100,40
|
Đá quí, kim loại quí và sản phẩm
|
1.062.516
|
9.281.182
|
+100,16
|
+138,89
|
+115,86
|
Bánh kẹo và các sản phẩm từ ngũ cốc
|
604.325
|
6.187.234
|
-41,26
|
+41,20
|
+48,12
|
Bông các loại
|
96.456
|
6.143.435
|
+246,08
|
+113,43
|
+462,31
|
Xe máy nguyên chiếc (chiếc)
|
216.194
|
6.143.101
|
-41,88
|
-85,54
|
-60,48
|
Dầu mỡ động thực vật
|
397.755
|
5.189.190
|
-15,97
|
+492,51
|
-28,29
|
Clinker
|
0
|
751.159
|
*
|
*
|
*
|
Sữa và sản phẩm sữa
|
0
|
393.763
|
*
|
*
|
+19,77
|
Với 19,57 tỉ USD nhập hàng Trung Quốc, trong khi xuất đạt 8,5 tỉ USD đã khiến nhập siêu từ nước láng giềng lên 11 tỉ USD. Con số này cao hơn tổng nhập siêu của Việt Nam trong 10 tháng từ tất cả các thị trường là 8,4 tỉ USD, chênh lệch 2,6 tỉ USD.
Nhập siêu Trung Quốc tăng mạnh nhưng các doanh nghiệp trong nước cũng đang đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường này. Tuy nhiên, việc này cũng không đơn giản. Đơn cử nông sản là thế mạnh của Việt Nam nhưng chúng ta vẫn chưa khai thác được hết tiềm năng. Cụ thể hàng thủy sản, ông Trương Đình Hòe, Tổng thư ký Hiệp hội Kinh doanh và Chế biến thủy sản Việt Nam (Vasep), cho rằng kim ngạch xuất khẩu 180 triệu USD trong 10 tháng vào Trung Quốc vẫn còn quá nhỏ bé so với tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản dự báo lên tới 6 tỉ trong năm nay. Thời gian tới, nên tập trung vào đường chính ngạch thì xuất khẩu thủy sản vào Trung Quốc sẽ tăng trưởng mạnh.
Theo các doanh nghiệp, có nhiều cách để hạn chế nhập siêu từ Trung Quốc và phải được thực hiện đồng bộ. Trong đó, cách hiệu quả nhất hiện nay là tăng cường xuất khẩu vào thị trường này để dần kéo gần lại sự chênh lệch giữa xuất và nhập. Ông Huỳnh Văn Minh, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp TP.HCM, cho rằng khả năng hàng hóa của ta vào thị trường Trung Quốc là trong tầm tay, nhiều doanh nghiệp như Bita’s, Vinamit… đã có chân chắc chắn ở đây.
TS Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế T.Ư, cho rằng những con số thống kê về quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc thể hiện nền kinh tế của chúng ta đang bất ổn. Mọi nỗ lực để đạt xuất siêu với nhiều thị trường như Mỹ, châu Âu… đều phải bù vào thâm hụt ở thị trường Trung Quốc. Tổng nhập siêu cả nước thấp hơn so với nhập siêu từ Trung Quốc là vậy. Ngoài ra, cùng với tăng trưởng nhập khẩu cao, chứng tỏ nền kinh tế Việt Nam ngày càng phụ thuộc nhiều hơn vào kinh tế Trung Quốc.
Quan hệ thương mại giữa ta và Trung Quốc còn bất ổn ở chỗ, Việt Nam xuất khẩu than qua Trung Quốc thì ngay lập tức nhập khẩu điện, xuất khẩu mủ cao su nguyên liệu và nhập lại vỏ ruột xe, xuất khẩu gỗ và nhập lại bàn ghế… Bên cạnh đó, Việt Nam nhập khẩu nhiều loại hàng hóa của Trung Quốc mà chúng ta có thể tự làm được, vì giá cả của họ rẻ hơn. Đây là những vấn đề cần cảnh báo và là thách thức lớn của nền kinh tế, cần có một chiến lược, lộ trình lâu dài để giảm nhập siêu từ Trung Quốc chứ không thể buông như vậy được.
(vinanet)