Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng khá mạnh sau khi Trung Quốc thông báo số người nhiễm virus mới trong ngày 11/2 thấp nhất kể từ cuối tháng 1, khiến nhà đầu tư hy vọng nhu cầu nhiên liệu tại nước tiêu thụ dầu lớn thứ 2 thế giới có thể bắt đầu hồi phục.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) kỳ hạn tháng 3/2020 tăng 1,23 USD, lên 51,17 USD/thùng, trong khi giá dầu Brent kỳ hạn tháng 4/2020 tăng 1,78 USD, lên 55,79 USD/thùng.
Giá dầu tăng bất chấp Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ báo cáo tồn trữ dầu thô của nước này tăng 7,5 triệu thùng trong tuần trước, cao hơn dự đoán là tăng 3 triệu thùng; tồn trữ xăng bất ngờ giảm cho thấy nhu cầu bắt đầu phục hồi. Lợi nhuận sản xuất xăng của Mỹ tăng lên mức cao nhất kể từ tháng 8/2019 do giá tăng tăng mạnh 4,4%.
Ngày 12/2 OPEC đã hạ dự báo tăng trưởng nhu cầu dầu toàn cầu 230.000 thùng/ngày do virus corona, mức giảm khiêm tốn so với các dự báo khác. Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ đã hạ bớt dự báo tăng trưởng nhu cầu 310.000 thùng/ngày trong năm nay.
Bộ trưởng Năng lượng Nga có cuộc họp với các nhà sản xuất dầu mỏ vào cuối ngày 12/2 để bàn về việc cắt giảm sản lượng. Hầu hết các công ty của Nga muốn việc hạn chế sản lượng toàn cầu của OPEC duy trì thêm 1 quý.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng nhẹ trong bối cảnh có những cảnh báo rủi ro đối với triển vọng kinh tế Mỹ. Cuối phiên này, vàng giao ngay vững ở mức 1.567,77 USD/ounce sau khi có lúc chạm mức thấp nhất kể từ ngày 6/2 là 1.561,16 USD lúc đầu phiên; vàng kỳ hạn tháng 4/2020 đóng cửa tăng 0,1% lên 1.571,6 USD.
Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) Jerome Powell cho biết, cơ quan này sẽ giữ lãi suất ổn định trong khi rủi ro đối với triển vọng kinh tế Mỹ vẫn còn. Ông Powell đã bày tỏ mối quan ngại của mình về vấn đề gia tăng nợ quốc gia, vốn đã vượt 23.000 tỷ USD. Các nhà phân tích thị trường cho rằng những cảnh báo của ông Powell về rủi ro đối với triển vọng kinh tế Mỹ đã hỗ trợ cho nhu cầu bảo toàn tài sản khiến giá vàng tăng.
Cũng hạn chế nhu cầu đối với vàng là USD mạnh gần mức cao nhất trong 4 tháng so với rổ các đồng tiền chính khiến giá vàng đắt hơn cho người mua bằng các đồng tiền khác.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao tháng 3/2020 giảm 10 US cent (0,57%) đóng cửa ở mức 17,497 USD/ounce; bạch kim giao tháng 4/2020 cũng giảm 6,2 USD (0,64%) xuống 967,3 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng tăng cũng do thông tin số lượng ca nhiễm virus corona mới ghi nhận ở Trung Quốc ngày 11/2 thấp nhất kể từ cuối tháng 1, nhưng nhà đầu tư vẫn lo ngại về tác động của sự bùng phát dịch bệnh tới nước tiêu thụ kim loại lớn nhất thế giới.
Đồng giao sau 3 tháng trên sàn giao dịch kim loại London (LME) lúc đóng cửa tăng 0,3% lên 5.764 USD/tấn. Kim loại này đã giảm 14 phiên liên tiếp kết thúc vào đầu tháng này, đợt giảm giá dài nhất kể từ năm 1977.
Phát biểu của một cố vấn y tế cao cấp Trung Quốc rằng bệnh dịch này có thể kết thúc vào tháng 4 đã nâng giá cổ phiếu và kim loại. Tuy nhiên, các chuyên gia vẫn cảnh báo sự lây lan và khả năng tác động tới hoạt động sản xuất và chi tiêu tiêu dùng tại nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới này.
Hầu hết mọi người tin rằng Trung Quốc đang đối mặt với một cú sốc ngắn nhưng mức độ mạnh hơn so với suy nghĩ ban đầu.
Giá quặng sắt tại Trung Quốc đạt mức cao nhất trong 3 tuần do đánh giá số lượng ca nhiễm virus corona mới tại nước này đang giảm dần, và công ty khai khoáng Vale SA giảm mạnh sản lượng nguyên liệu thô để sản xuất thép trong quý 4/2019.
Hợp đồng quặng sắt được giao dịch nhiều nhất trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên tăng khoảng 3,6% lên 622 CNY (89,3 USD)/tấn, mức cao nhất kể từ ngày 23/1, chốt phiên tăng 3,2%. Thép thanh trong xây dựng trên sàn giao dịch Thượng Hải tăng 0,3% trong khi thép cuộn cán nóng tăng 0,5%.
Hãng Vale đã báo cáo sản lượng quặng sắt quý 4/2019 giảm 22,4% so với năm trước, làm dấy lên lo ngại về nguồn cung tại Trung Quốc, nhà sản xuất thép hàng đầu thế giới.
Các nhà kinh doanh thép ở Trung Quốc đã trì hoãn trở lại thị trường sau Tết Nguyên đán do nhu cầu chậm chạp từ lĩnh vực xây dựng bị ảnh hưởng bởi sự bùng phát của virus corona.
Trên thị trường nông sản, giá đường thô kỳ hạn tháng 3 tăng 2,2% lên 15,76 US cent/lb, cao nhất trong 2,5 tháng; đường trắng kỳ hạn tháng 3 tăng 2,9% lên 449,9 USD/tấn.
Các đại lý cho biết giá có thể tăng tiếp và mức giá này vẫn quá rẻ trong bối cảnh dự báo thiếu hụt, mặc dù cảnh báo thị trường bị bán quá nhiều theo yếu tố kỹ thuật có thể gây ra việc điều chỉnh trong ngắn hạn.
Hiệp hội Đường Indonesia dự báo sản lượng đường trắng của nước này năm nay sẽ đạt 2 -2,1 triệu tấn, giảm khoảng 10% so với năm ngoái, do hạn hán trong năm trước. Giám đốc điều hành Hiệp hội Đường Indonesia, Budi Hidayat cho biết ước tính thấp hơn này có thể buộc Indonesia nhập khẩu 1,4 triệu tấn đường thô hay tương đương 1,3 triệu tấn đường trắng cho tiêu thụ hộ gia đình. Tiêu thụ đường của hộ gia đình trong năm 2020 ước tính là 3,2 triệu tấn, tăng nhẹ từ 3,1 triệu tấn trong năm 2019, khi sản lượng đường trắng của Indonesia là 2,23 triệu tấn.
Đối với mặt hàng cà phê, giá arabica kỳ hạn tháng 5/2020 tăng 0,29% lên 1,029 USD/lb; rubusta kỳ hạn tháng 5 giảm 1% xuống 1.286 USD/tấn.
Lượng arbica lưu trữ trên sàn ICE trong tháng 1 đã tăng chậm lại, giúp củng cố giá arabica.
Nhà sản xuất cà phê Brazil đã xuất khẩu 2,9 triệu bao loại 60 kg/bao trong tháng 1, giảm 9,9% so với một năm trước. Việt Nam, nhà xuất khẩu cà phê robusta hàng đầu thế giới đã xuất khẩu 2,4 triệu bao cà phê trong tháng 1, giảm 22,9% so với tháng trước đó.
Trong nhóm ngũ cốc, giá lúa mì Mỹ tăng từ mức thấp nhất trong gần 2 tháng với lạc quan rằng virus corona sẽ được ngăn chặn. Ngô và đậu tương cũng tăng. Lúa mì kỳ hạn tháng 3/2020 trên sàn giao dịch Chicago lúc đóng cửa tăng 5-1/2 US cent lên 5,47-1/2 USD/bushel, giá bật tăng sau khi giảm xuống mức thấp nhất kể từ ngày 16/12 tại 5,38-1/4 USD. Trong khi đó, giá ngô kỳ hạn tháng 3 tăng 3-1/4 US cent lên 3,83 USD/bushel và đậu tương cùng kỳ hạn tăng 7-3/4 US cent lên 8,92-1/2 USD/bushel.

Giá hàng hóa thế giới sáng 13/2 (giờ VN)

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

51,22

+0,05

+0,10%

Dầu Brent

USD/thùng

55,79

+1,78

+3,30%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

37.610,00

+520,00

+1,40%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

1,84

0,00

0,00%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

158,49

+0,39

+0,25%

Dầu đốt

US cent/gallon

167,38

-0,19

-0,11%

Dầu khí

USD/tấn

494,25

0,00

0,00%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

53.520,00

+760,00

+1,44%

Vàng New York

USD/ounce

1.573,70

+2,10

+0,13%

Vàng TOCOM

JPY/g

5.546,00

+24,00

+0,43%

Bạc New York

USD/ounce

17,52

+0,02

+0,10%

Bạc TOCOM

JPY/g

61,90

-0,40

-0,64%

Bạch kim

USD/ounce

963,32

+0,17

+0,02%

Palađi

USD/ounce

2.383,23

-16,58

-0,69%

Đồng New York

US cent/lb

258,35

-1,65

-0,63%

Đồng LME

USD/tấn

5.764,00

+19,00

+0,33%

Nhôm LME

USD/tấn

1.737,00

+3,00

+0,17%

Kẽm LME

USD/tấn

2.148,00

0,00

0,00%

Thiếc LME

USD/tấn

16.500,00

+25,00

+0,15%

Ngô

US cent/bushel

383,00

+3,25

+0,86%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

547,50

+5,50

+1,01%

Lúa mạch

US cent/bushel

304,00

+4,75

+1,59%

Gạo thô

USD/cwt

13,39

-0,21

-1,58%

Đậu tương

US cent/bushel

892,50

+7,75

+0,88%

Khô đậu tương

USD/tấn

291,70

+0,90

+0,31%

Dầu đậu tương

US cent/lb

31,40

+0,32

+1,03%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

472,60

+4,00

+0,85%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.868,00

-8,00

-0,28%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

102,75

+0,20

+0,19%

Đường thô

US cent/lb

15,06

+0,02

+0,13%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

98,00

-1,30

-1,31%

Bông

US cent/lb

69,24

+0,50

+0,73%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

454,50

+3,10

+0,69%

Cao su TOCOM

JPY/kg

181,60

+2,60

+1,45%

Ethanol CME

USD/gallon

1,35

+0,01

+0,37%

Nguồn: VITIC/ Reuters, Bloomberg