Trên thị trường năng lượng, giá dầu đảo chiều hồi phục sau khi giảm mạnh trong những phiên trước do nhà đầu tư điều chỉnh tâm lý.
Kết thúc phiên vừa qua, dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giao tháng 4/2020 tăng 23,8% lên 25,22 USD/thùng; dầu Brent Biển Bắc giao tháng 5/2020 tăng 14,4% lên 28,47 USD/thùng.
Trong phiên trước đó (18/3), giá dầu WTI giảm 24,4% xuống 20,37 USD/thùng - mức thấp nhất kể từ phiên 20/2/2002. Giá dầu Brent Biển Bắc cũng để mất 13,4% xuống còn 24,88 USD/thùng.
Giới chuyên gia cho rằng thị trường dầu mỏ có khả năng vẫn chưa bình ổn trong thời gian tới, giữa lúc nhu cầu đối với dầu vẫn yếu, cùng với các tác động từ dịch Covid-19 và những lo ngại về một cuộc chiến giá dầu giữa Saudi Arabia và Nga.
Nhà phân tích năng lượng Carsten Fritsch, thuộc Commerzbank Research, trong một lưu ý ngày 19/3 nhận định rằng trong ngắn hạn, nhu cầu dầu toàn cầu sẽ giảm nhanh hơn nữa khi ngày càng nhiều quốc gia trên thế giới đưa ra các lệnh hạn chế đi lại và phong tỏa nhằm chặn sự lây lan của dịch Covid -19. Nguồn cung dầu có khả năng tiếp tục dôi dư trong quý II/2020.
Hồi đầu tháng này, Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các nước đồng minh, do Nga dẫn đầu, đã không đạt được thỏa thuận về vấn đề cắt giảm sản lượng, làm dấy lên lo ngại về một cuộc chiến giá dầu. Saudi Arabia và Nga hiện đã thông báo về việc gia tăng đáng kể sản lượng "vàng đen".
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm hơn 1% khi đồng USD tăng mạnh, giữa lúc dịch Covid-19 đe dọa làm suy giảm các hoạt động kinh tế và thúc đẩy giới đầu tư bán các tài sản để giữ tiền mặt.
Cuối phiên giao dịch, giá vàng giao ngay giảm 1,2% xuống 1.468,42 USD/ounce, trong khi vàng kỳ hạn tháng 4/2020 tăng 0,1% và khép phiên ở mức 1.479,30 USD/ounce.
Ông David Meger, chuyên gia của công ty High Ridge Futures, cho rằng rõ ràng vàng đang không giữ được vai trò là kênh trú ẩn an toàn, mà giới đầu tư đang hướng về tiền mặt nhiều hơn.
Đồng USD đã xác lập mức cao mới trong ba năm qua do nhu cầu mạnh, bất chấp những đợt gia tăng thanh khoản gần đây của ngân hàng trung ương nhiều nước trên thế giới. Chuyên gia Jim Wyckoff của công ty Kitco Metals nhận định những diễn biến trên thị trường đã cho thấy đồng USD vẫn chiếm ưu thế trong những thời kỳ khó khăn, và việc tăng cường nắm giữ đồng tiền này đang gây rối loạn trên các thị trường tài chính.
Sự lây lan nhanh của dịch Covid-19 đã gây tâm lý hoang mang và châm ngòi cho hoạt động bán tháo nhiều loại tài sản, trong đó có cả các kim loại quý được xem là kênh trú ẩn an toàn như vàng. Số liệu chính thức của Mỹ cho thấy số người nộp đơn xin hưởng trợ cấp thất nghiệp của nước này đã tăng mạnh trong tuần trước lên mức cao nhất kể từ năm 2017, dấu hiệu đầu tiên phản ánh tác động của dịch Covid -19 đối với thị trường lao động Mỹ.
Về những kim loại quý khác, giá bạch kim giảm 5,1% xuống còn 592,83 USD/ounce, là phiên thứ bảy liên tiếp giảm giá; giá bạc tăng 0,5% lên 12,05 USD/ounce nhưng vẫn ở gần mức thấp nhất trong 11 năm qua ghi nhận phiên trước đó.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng duy trì ở mức thấp nhất gần 4 năm do virus corona lây lan mạnh làm gia tăng mối lo ngại về tăng trưởng kinh tế toàn cầu và nhu cầu kim loại công nghiệp suy giảm.
Giá đồng trên sàn London tăng 2% lên 4.835 USD/tấn, trước đó trong phiên giá đồng chạm 4.371 USD/tấn, thấp nhất kể từ tháng 1/2016. Tính từ đầu tuần đến nay, giá đồng giảm khoảng 12%.
Giá đồng chịu áp lực giảm bởi tồn trữ đồng tại London trong tuần trước tăng 30% lên 231.025 tấn. Trong khi, tồn trữ đồng tại Trung Quốc – nước tiêu thụ đồng hàng đầu thế giới – đạt mức cao nhất 4 năm (380.085 tấn).
Thị trường Trung Quốc và nhiều thị trường khác trên toàn cầu đang bị xáo trộn bởi các biện pháp kích thích của chính phủ, nhằm ngăn chặn virus lây lan đến nay đã cướp đi hơn 9.000 sinh mạng, dấy lên mối lo ngại về suy thoái kinh tế toàn cầu.
Giá quặng sắt tại Trung Quốc ổn định về cuối phiên sau khi giảm mạnh trong đầu phiên giao dịch, khi công ty khai thác quặng sắt Vale Brazil cho biết có thể tạm thời ngừng hoạt động tại trung tâm phân phối Malaysia như là một biện pháp chống lại đại dịch virus corona.
Quặng sắt trên sàn Đại Liên kết thúc phiên vừa qua vững ở mức 678 CNY (95,76 USD)/tấn sau khi giảm 5,8% trong đầu phiên giao dịch. Tuy nhiên, tính từ đầu năm đến nay, giá quặng sắt tăng 4,9%. Trên sàn Singagapore, giá quặng sắt giảm 0,3% sau khi giảm 4,1% trong đầu phiên giao dịch. Trong khi đó, trên sàn Thượng Hải, giá thép cây giảm 6,5%, trong khi thép cuộn cán nóng và thép không gỉ cả hai đều giảm 1,7%.
Trên thị trường nông sản, giá đường giảm xuống mức thấp nhất 1,5 năm do lo ngại giá năng lượng tại Brazil giảm sẽ khiến các nhà máy đường chuyển sang sản xuất nhiều đường hơn ethanol.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 5/2020 trên sàn ICE giảm 0,2 US cent tương đương 1,8% xuống 10,48 US cent/lb, thấp nhất kể từ tháng 9/2018. Giá đường trắng giao cùng kỳ hạn trên sàn London giảm 2,8 USD tương đương 0,8% xuống 333 USD/tấn, thấp nhất kể từ tháng 11/2019.
Giá cà phê biến động trái chiều giữa các thị trường. Tại New York, giá cà phê Arabica kỳ hạn tháng 5/2020 tăng 1,1 US cent tương đương 1% lên 1,094 USD/lb, đóng cửa phiên trước đó tăng 5%. Tại London, giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 5/2020 giảm 9 USD tương đương 0,7% xuống 1.218 USD/tấn.
Tại Việt Nam giảm do đại dịch virus corona phủ bóng lên thị trường, trong khi hoạt động giao dịch tại Indonesia vẫn trầm lắng do nguồn nguồn cung thấp.
Giá cà phê robusta xuất khẩu của Việt Nam (loại 2, 5% đen&vỡ) được chào giá cộng 155 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 5/2020 trên sàn London, giảm so với mức cộng 160 USD/tấn cách đây 1 tuần. Tại thị trường nội địa, cà phê nhân xô được bán với giá 30.500 đồng (1,31 USD)/kg, giảm so với 31.100 đ/kg hồi tuần trước.
Tại Indonesia, giá cà phê robusta loại 4 (80 hạt lỗi) chào bán ở mức cộng 350 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 6/2020 trên sàn London, trong khi so với hợp đồng kỳ hạn tháng 5/2020, giá cà phê robusta được chào bán mức cộng 300 USD/tấn, giảm so với mức cộng 350 USD/tấn cách đây 1 tuần.
Giá ngô, lúa mì và đậu tương tại Mỹ đều tăng được hỗ trợ bởi hoạt động mua vào và kỳ vọng nhu cầu xuất khẩu sẽ tăng khi giá mới đây giảm khiến nguồn cung Mỹ trở nên hấp dẫn hơn đối với khách mua hàng nước ngoài.
Trên sàn Chicago, giá lúa mì đỏ mềm vụ đông kỳ hạn tháng 5/2020 tăng 26-3/4 US cent lên 5,35 USD/bushel. Đồng thời, giá ngô giao cùng kỳ hạn tăng 10-1/4 US cent lên 3,45-1/2 USD/bushel và giá đậu tương kỳ hạn tháng 5/2020 tăng 17-3/4 US cent lên 8,43-1/4 USD/bushel.
Giá ngũ cốc cũng được hỗ trợ bởi ngày càng nhiều các ngân hàng trung ương tuyên bố nỗ lực kích thích kinh tế. Ngân hàng Trung ương châu Âu cam kết sẽ mua 750 tỉ euro (820 tỉ USD) trái phiếu đến năm 2020.
Giá cao su tại Tokyo giảm xuống mức thấp nhất 16 tháng, khi các biện pháp khẩn cấp của Ngân hàng trung ương châu Âu, Mỹ và Nhật Bản đã không cản được đà bán tháo bởi lo ngại virus corona.
Giá cao su kỳ hạn tháng 8/2020 trên sàn TOCOM giảm 7,2 JPY tương đương 4,5% xuống 154 JPY (1,4 USD)/kg, sau khi đạt mức thấp nhất kể từ ngày 21/11/2018 (151,5 JPY/kg) trong đầu phiên giao dịch; cao su kỳ hạn tháng 5/2020 trên sàn Thượng Hải giảm 535 CNY xuống 9.680 CNY (1.370 USD)/tấn, sau khi chạm 9.395 CNY/tấn, thấp nhất kể từ tháng 12/2008.
Ngân hàng Trung ương châu Âu đã đưa ra kế hoạch mua trái phiếu khẩn cấp trị giá 750 tỉ euro (814 tỉ USD) để giảm thiểu tác động kinh tế bởi đại dịch virus corona gây ra, trong khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đã triển khai chương trình tín dụng khẩn cấp lần thứ 3 trong 2 ngày.

Giá hàng hóa thế giới sáng 20/3

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

25,78

+0,56

+2,22%

Dầu Brent

USD/thùng

28,28

-0,19

-0,67%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

24.700,00

+1.570,00

+6,79%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

1,61

-0,04

-2,60%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

66,65

-1,85

-2,70%

Dầu đốt

US cent/gallon

104,40

+0,23

+0,22%

Dầu khí

USD/tấn

300,75

+13,00

+4,52%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

38.200,00

+1.140,00

+3,08%

Vàng New York

USD/ounce

1.483,60

+4,30

+0,29%

Vàng TOCOM

JPY/g

5.202,00

+45,00

+0,87%

Bạc New York

USD/ounce

12,37

+0,24

+1,94%

Bạc TOCOM

JPY/g

43,60

+1,50

+3,56%

Bạch kim

USD/ounce

612,84

+21,64

+3,66%

Palađi

USD/ounce

1.668,11

+11,97

+0,72%

Đồng New York

US cent/lb

211,80

-6,75

-3,09%

Đồng LME

USD/tấn

4.825,00

+80,00

+1,69%

Nhôm LME

USD/tấn

1.630,00

-20,00

-1,21%

Kẽm LME

USD/tấn

1.847,00

+1,00

+0,05%

Thiếc LME

USD/tấn

13.900,00

+325,00

+2,39%

Ngô

US cent/bushel

350,50

+5,00

+1,45%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

537,50

+2,50

+0,47%

Lúa mạch

US cent/bushel

264,00

+2,75

+1,05%

Gạo thô

USD/cwt

14,02

+0,10

+0,68%

Đậu tương

US cent/bushel

851,25

+8,00

+0,95%

Khô đậu tương

USD/tấn

316,50

+1,70

+0,54%

Dầu đậu tương

US cent/lb

25,86

+0,38

+1,49%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

463,70

+0,80

+0,17%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.216,00

-68,00

-2,98%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

112,70

+4,40

+4,06%

Đường thô

US cent/lb

10,59

-0,08

-0,75%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

99,00

+1,80

+1,85%

Bông

US cent/lb

54,65

-0,28

-0,51%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

319,80

+16,40

+5,41%

Cao su TOCOM

JPY/kg

154,90

+0,90

+0,58%

Ethanol CME

USD/gallon

1,04

+0,07

+7,20%

Nguồn: Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam (MXV)