Thượng viện Mỹ vừa thông qua dự luật kích thích kinh tế quy mô 2.000 tỷ USD nhằm trực tiếp giúp người lao động Mỹ và nhiều doanh nghiệp trong các ngành ảnh hưởng đại dịch Covid-19. Đây là gói kích thích có quy mô lớn chưa từng có, cao hơn so với cuộc khủng hoảng 2008 và các cuộc khủng hoảng trước đó.
Trên thị trường năng lượng, giá dầu tiếp tục đi lên sau khi Mỹ công bố gói kích thích kinh tế khổng lồ, mặc dù khi số liệu của chính phủ cho thấy dịch Covid-19 bắt đầu làm giảm nhu cầu nhiên liệu của Mỹ trong tuần trước.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu thô Brent tăng 24 US cent hay 0,9% lên 27,39 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 48 US cent hay 2% lên 24,49 USD/thùng.
Các thượng nghị sĩ Mỹ và các quan chức chính quyền Trump đã đạt được một thỏa thuận về dự luật kích thích kinh tế 2 nghìn tỷ USD dự kiến được thông qua Quốc hội.
Nhu cầu các sản phẩm từ dầu, đặc biệt là nhiên liệu máy bay, giảm mạnh khi chính phủ các quốc gia trên thế giới áp lệnh hạn chế đi lại, phong tỏa lãnh thổ để ngăn virus corona lây lan. Gần đây nhất là Ấn Độ, quốc gia đông dân thứ hai thế giới, tiêu thụ dầu mỏ nhiều thứ ba thế giới, bước vào thời gian 21 ngày phong tỏa.
Theo Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ nhu cầu xăng của Mỹ đã giảm 859.000 thùng/ngày xuống 8,8 triệu thùng/ngày trong tuần vừa qua mức giảm mạnh nhất kể từ tháng 9/2019. Tổng thể nhu cầu nhiên liệu giảm gần 2,1 triệu thùng/ngày trong tuần này. Tồn trữ dầu thô tăng 1,6 triệu thùng, là tuần tăng thứ 9 liên tiếp, và dự báo sẽ tiếp tục tăng khi nhu cầu nhiên liệu giảm và các nhà máy lọc dầu giảm hoạt động.
Giám đốc điều hành của Vitol Group, công ty kinh doanh dầu lớn nhất thế giới ước tính nhu cầu giảm từ 15 tới 20 triệu thùng mỗi ngày trong vài tuần tới. Vitol cho biết các nhà máy lọc dầu cho tới nay đã cắt giảm khoảng 7 triệu thùng/ngày, một con số mà công ty dự kiến tăng hơn nữa khi kho chứa đầy.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng biến động nhẹ trong bối cảnh giới phân tích cho rằng kim loại quý này đã được mua quá mức trong hai phiên trước và đang hướng tới sự điều chỉnh.
Kết thúc phiên giao dịch, vàng giao ngay tăng 0,1% lên 1.612 USD/ounce, trong một phiên đầy biến động có lúc giá đã tăng lên cao nhất 2 tuần; vàng kỳ hạn tháng 4/2020 giảm 1,5% xuống 1.634,9 USD/ounce sau khi tăng mạnh nhất kể từ năm 2009 ở phiên trước đó.
Giá vàng cũng chịu sức ép đi xuống sau khi Bộ thương mại Mỹ công bố báo cáo cho thấy các đơn đặt hàng lâu bền đã tăng hơn dự kiến trong tháng 2/2020, với mức tăng 1,2% so với mức tăng 0,1% của tháng trước đó. Điều này phản ánh sức mạnh của ngành chế tạo ô tô Mỹ.
Giá vàng giao ngay giao dịch thấp hơn giá vàng kỳ hạn của Mỹ là dấu hiệu thị trường này lo lắng rằng việc hạn chế đi lại bằng đường hàng không và đóng cửa nhà máy lọc dầu sẽ cản trở các chuyển vàng tới Mỹ để đáp ứng các hợp đồng.
Về những kim loại quý khác, giá palađi tăng mạnh nhất một ngày kẻ từ năm 1997, do phong tỏa tại nhà sản xuất chủ chốt Nam Phi đã làm trầm trọng về nguồn cung, vàng giao ngay tăng khi kỳ vọng về gói kích thích 2 nghìn tỷ USD của chính phủ Mỹ. Cụ thể, giá palađi cuối phiên tăng 19,3% lên 2.304,74 USD/thùng, trong phiên có lúc giá đã tăng 24,8%.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng tăng bởi kỳ vọng vào các chương trình kích thích kinh tế trên khắp thế giới. Tuy nhiên, đà tăng bị hạn chế bởi lo lắng về việc đóng cửa kéo dài đồng thời thiệt hại lâu dài hơn đối với tăng trưởng và nhu cầu.
Trên sàn giao dịch kim loại London (LME), giá đồng kỳ hạn giao sau 3 tháng cuối phiên vừa qua tăng 1% lên 4.859,5 USD/tấn. Giá kim loại này đã giảm 25% kể từ giữa tháng 1 và gần mức thấp nhất trong 4 năm.
Một số dự đoán nhu cầu yếu hơn được bù đắp bởi việc đóng cửa, đình chỉ và sự gián đoạn của hoạt động khai thác, nhưng giá giao ngay thấp hơn so với giá kim loại giao sau 3 tháng cho thấy khả năng thị trường dư thừa. Nhìn chung, giới chuyên gia dự đoán giá đồng có thể phục hồi trong ngắn hạn, nhưng từ góc độ vĩ mô sẽ giảm tiếp.
Giá quặng sắt tại Trung Quốc tăng hơn 5% trong phiên qua, mạnh nhất kể từ tháng 7/2019, do lo lắng về nguồn cung khi thêm nhiều quốc gia gồm cả các nhà sản xuất hàng đầu về nguyên liệu thô sản xuất thép ra lệnh phong tỏa để hạn chế đại dịch Covid-19
Hy vọng về các gói kích thích toàn cầu và nhu cầu thép phục hồi cũng hỗ trợ tâm lý, các nhà lập pháp Mỹ đang tiến tới thông qua gói cứu trợ 2 nghìn tủ USD và tổ chức G20 đang tìm cách thúc đẩy tăng cường phối hợp hợp tác chống đại dịch.
Quặng sắt trên sàn giao dịch Đại Liên cuối phiên tăng 5,1% lên 665 CNY (93,97 USD)/tấn, xóa đi những tổn thất trong năm nay. Giá quặng sắt tại Singapore tăng 2,5% trong phiên giao dịch buổi chiều. Quặng sắt 62% giao ngay đóng cửa ngày 24/3 ở mức 84,7 USD/tấn, tăng từ mức thấp nhất 6 tuần tại 84,5 USD trong phiên liền trước, theo số liệu của SteelHome. Giá thép thanh tại Thượng Hải tăng 1,5%, trong khi thép cuộn cán nóng tăng 0,9%, và thép không gỉ tăng 1,6%.
Nam Phi và Australia, nơi có các mỏ quặng sắt lớn nhất thế giới, đã áp đặt các biện pháp phong tỏa để làm chậm sự lây lan của virus corona.
Trên thị trường nông sản, giá đường thô kỳ hạn tháng 5 chốt phiên tăng 0,14 US cent hay 1,2% lên 11,47 US cent. Đường trắng kỳ hạn tháng 5 thay đổi ít tại 338,9 USD/tấn.
Giá năng lượng suy yếu có xu hướng thúc đẩy các nhà máy mía tại Brazil sản xuất thêm đường, mặc dù các nhà phân tích cho rằng yếu tố giảm giá này đã được định giá hiện nay. Các nhà máy đường Brazil đã nhanh chóng bắt đầu sản xuất trong niên vụ mới, chế biến 3 triệu tấn trong nửa đầu tháng 3, nhiều hơn 88% so với cùng kỳ một năm trước.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 5 đóng cửa tăng 4,35 US cent hay 3% lên 1,2995 USD/lb, mức cao nhất kể từ đầu tháng 1. Arabia được hỗ trợ từ khả năng gián đoạn xuất khẩu của Brazil vì đại dịch Covid-19 kết hợp với dự trữ của các nhà rang xay và người dùng cuối. Các đại lý cho biết dự trữ của sàn ICE đang tiếp tục giảm mạnh.
Trong nhóm ngũ cốc, giá lúa mì của Mỹ tăng vọt với hợp đồng giao tháng 5 trên sàn giao dịch Chicago đạt mức cao nhất 2 tháng do việc mua vào theo chỉ số kỹ thuật và nhu cầu làm bánh mì.
Lúa mì CBOT đóng cửa tăng 18-1/2 US cent lên 5,8 USD/bushel trong phiên giá đã đạt 5,83-1/4 USD, cao nhất kể từ ngày 22/1. Giá ngô giao tháng 5 trên sàn CBOT tăng 1-1/4 US cent lên 3,48-1/2 USD/bushel trong khi đậu tương kỳ hạn tháng 5 giảm 5-1/4 US cent xuống 8,81-1/2 USD/bushel.
Lúa mì tăng cũng phản ánh nguồn cung của lúa mì đỏ mềm vụ đông của Mỹ hạn hẹp, tại thời điểm các thương nhân trên toàn cầu đang tìm cách mua lúa mì.
Cao su trên sàn giao dịch hàng hóa Tokyo (TOCOM) tăng được hỗ trợ bởi hy vọng gói kích thích tài chính 2 nghìn tỷ USD của Mỹ sẽ hạn chế thiệt hại của đại dịch Covid-19 tới nền kinh tế.
Hợp đồng cao su TOCOM kỳ hạn tháng 8 đóng cửa tăng 2,3 JPY lên 153,2 JPY (1,38 USD)/kg. Giá cao su giao tháng 9 tại Thượng Hải tăng 145 CNY lên 9.915 CNY/tấn.
Giá hàng hóa thế giới sáng 26/3

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

24,28

-0,21

-0,86%

Dầu Brent

USD/thùng

27,36

-0,03

-0,11%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

26.530,00

-1.160,00

-4,19%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

1,64

-0,02

-1,15%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

54,24

-0,44

-0,80%

Dầu đốt

US cent/gallon

108,60

-1,18

-1,07%

Dầu khí

USD/tấn

309,00

+3,00

+0,98%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

38.310,00

-830,00

-2,12%

Vàng New York

USD/ounce

1.631,80

-2,50

-0,15%

Vàng TOCOM

JPY/g

5.648,00

-106,00

-1,84%

Bạc New York

USD/ounce

14,53

-0,34

-2,31%

Bạc TOCOM

JPY/g

50,50

-1,30

-2,51%

Bạch kim

USD/ounce

731,77

-10,39

-1,40%

Palađi

USD/ounce

2.353,00

+0,59

+0,03%

Đồng New York

US cent/lb

218,70

-1,70

-0,77%

Đồng LME

USD/tấn

4.855,00

+41,00

+0,85%

Nhôm LME

USD/tấn

1.537,50

-10,00

-0,65%

Kẽm LME

USD/tấn

1.836,00

+20,50

+1,13%

Thiếc LME

USD/tấn

14.299,00

+899,00

+6,71%

Ngô

US cent/bushel

346,00

-2,50

-0,72%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

571,50

-8,50

-1,47%

Lúa mạch

US cent/bushel

263,00

-3,00

-1,13%

Gạo thô

USD/cwt

13,66

+0,03

+0,22%

Đậu tương

US cent/bushel

877,25

-4,25

-0,48%

Khô đậu tương

USD/tấn

318,50

-3,20

-0,99%

Dầu đậu tương

US cent/lb

26,63

-0,01

-0,04%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

464,10

-1,50

-0,32%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.248,00

-27,00

-1,19%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

129,95

+4,35

+3,46%

Đường thô

US cent/lb

11,41

+0,14

+1,24%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

121,10

+4,20

+3,59%

Bông

US cent/lb

53,82

+0,38

+0,71%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

311,60

-9,90

-3,08%

Cao su TOCOM

JPY/kg

150,40

-2,80

-1,83%

Ethanol CME

USD/gallon

0,93

+0,01

+1,19%

 

Nguồn: VITIC/ Reuters, Bloomberg