Trên thị trường năng lượng, giá dầu tiếp tục tăng do quan ngại về nguồn cung dầu thế giới trong bối cảnh thị trường theo dõi sát sao diễn biến mới nhất về tình trạng xung đột giữa Mỹ và Iran.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giao tháng 9/2019 tại thị trường New York đã tăng 0,55 USD lên 56,77 USD/thùng, trong khi giá dầu Brent giao tháng 9/2019 tại thị trường London tăng 0,57 USD lên 63,83 USD/thùng.
Căng thẳng giữa Iran và Mỹ đã leo thang từ tháng 5/2018 khi Tổng thống Mỹ Donald Trump tuyên bố đơn phương rút khỏi thỏa thuận hạt nhân Iran năm 2015 và tái áp đặt các lệnh trừng phạt quốc gia Trung Đông này. Ngày 23/7, người đứng đầu Hải quân Iran,Thiếu tướng Hossein Khanzadi, cho biết Iran quan sát tất cả các tàu của Mỹ ở vùng Vịnh và lưu trữ các hình ảnh ghi lại hoạt động hằng ngày của các tàu này. Ông Khanzadi cũng cho biết Iran có những hình ảnh hoàn chỉnh và một kho lưu trữ lớn ghi lại những chuyển động hàng ngày và trong từng khoảnh khắc của lực lượng liên minh và Mỹ. Những hình ảnh này do các thiết bị bay không người lái của Iran thu thập. Cùng ngày, Tư lệnh Bộ chỉ huy trung tâm Mỹ (CENTCOM), Tướng Kenneth McKenzie cho biết tàu chiến Mỹ có thể đã bắn hạ hai máy bay không người lái của Iran tại Vùng Vịnh hồi tuần trước.
Trong khi đó, Washington đã áp đặt các lệnh trừng phạt với công ty năng lượng quốc doanh Zhuhai Zhenrong của Trung Quốc vì bị cáo buộc vi phạm hạn chế đã áp đặt với lĩnh vực dầu mỏ của Iran.
IMF đã giảm dự báo tăng trưởng toàn cầu, cảnh báo rằng thuế quan Mỹ - Trung hay việc Anh rời khỏi Liên minh Châu Âu không theo trật tự có thể làm suy yếu đầu tư và gián đoạn chuỗi cung ứng.
Nhiều khả năng giá dầu có thể nhận thêm tác động tích cực nếu dự báo về lượng dầu dự trữ hàng tuần của Mỹ sụt giảm là chính xác. Theo dự kiến, Mỹ sẽ công bố số liệu chính thức về lượng dầu dự trữ của nước này trong tuần kết thúc vào 19/7 vào ngày 24/7 (giờ địa phương). Trước đó, trong tuần kết thúc vào ngày 12/7, lượng dầu dự trữ của Mỹ là 455,9 triệu thùng, cao hơn xấp xỉ 45 triệu thùng so với cùng kỳ năm 2018.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng xuống mức thấp nhất trong một tuần do đồng USD mạnh lên (sau thỏa thuận gia hạn giới hạn nợ của Mỹ) bù cho số liệu kinh tế của Mỹ suy yếu.
Tổng thống Donald Trump và các nhà lãnh đạo quốc hội Mỹ đã đồng ý gia hạn 2 năm giới hạn nợ và giới hạn chi tiêu liên bang để tránh cho chính phủ vỡ nợ trong năm nay khiến đồng USD tăng giá.
Giá vàng giao ngay giảm 0,3% xuống 1.420,45 USD/ounce, trước đó lúc đầu phiên có lúc giá giảm xuống 1.413,80 USD, thấp nhất kể từ ngày 17/7. Vàng kỳ hạn tháng 8/2019 chốt phiên giảm 0,4% xuống 1.421,7 USD/ounce.
Mặc dù được hỗ trợ, các nhà phân tích cho biết vàng có thể giảm trong những ngày tới. Nhà phân tích kỹ thuật của Reuters cho biết vàng có thể giảm xuống 1.401 – 1.409 USD/ounce do đã phá vỡ mức hỗ trợ tại 1.422 USD.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá hầu hết các kim loại bị áp lực từ đồng USD tăng giá bởi thỏa thuận gia hạn hai năm giới hạn nợ giữa Trump và các nhà lãnh đạo quốc hội.
Giá đồng chốt phiên giảm 0,8% xuống 5.968 USD/tấn.
Giá nickel giảm trong phiên qua và giá vẫn gần cao nhất một năm, nhưng các nhà phân tích cho biết giá kim loại để sản xuất thép không gỉ này ở mức cao không được hỗ trợ bởi các yếu tố cơ bản.
Giá nickel trên sàn giao dịch kim loại London (LME) đóng cửa giảm 0,9% xuống 14.170 USD/tấn sau khi giảm 3% trong phiên liền trước.
Các nhà đầu cơ và khách hàng mua giao ngay đã đẩy giá trên sàn LME tăng 25% trong 2 tuần. Reuters đưa tin công ty Tsingshan Holding Group của Trung Quốc đã mua lượng lớn nickel trên sàn LME để bổ sung sản lượng trong nước.
Gần 70% nhu cầu nickel toàn cầu (ước tính 2,4 triệu tấn trong năm nay) được tiêu thụ bởi các nhà máy thép không gỉ, chủ yếu nằm ở Trung Quốc.
Dự trữ nickel trong kho LME ở mức thấp nhất kể từ tháng 1/2013 tại 100.422 tấn.
Tổ chức nghiên cứu đồng thế giới cho biết trong 4 tháng đầu năm nay, thị trường đồng toàn cầu thiếu hụt 155.000 tấn so với thiếu hụt 64.000 tấn cùng kỳ một năm trước.
Giá quặng sắt Đại Liên giảm xuống mức thấp nhất trong 6 phiên, bởi nhu cầu chậm lại do việc hạn chế thêm sản lượng tại Đường Sơn, thành phố sản xuất thép hàng đầu Trung Quốc.
Hợp đồng quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2019 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên đóng cửa giảm 1,7% xuống 880 CNY (127,86 USD)/tấn. Trong đầu phiên giao dịch giá đã giảm khoảng 2,4% xuống 874 CNY.
Lo ngại về nhu cầu đối với nguyên liệu sản xuất thép lớn hơn các vấn đề về nguồn cung. Sản lượng quặng sắt của Vale SA trong quý 2/2019 giảm gần 34% so với một năm trước, giảm 12% so với quý trước đó xuống 64 triệu tấn, thấp hơn 10 triệu tấn so với giả định của thị trường. Vale, nhà xuất khẩu quặng sắt hàng đầu thế giới cho biết sản lượng quặng sắt giảm trong quý 2/2019 do các đập chính của họ vẫn đóng cửa hoặc đóng cửa một phần sau vụ vỡ đập gây chết người hồi tháng 1/2019.
POSCO, nhà sản xuất thép Hàn Quốc lớn thứ 5 thế giới dự báo nhu cầu thép của Trung Quốc phục hồi trong nửa cuối năm nay, được hỗ trợ bởi các chính sách kinh tế. Tuy nhiên tăng trưởng nhu cầu thép toàn cầu dự kiến chậm lại do tình trạng kinh tế không rõ ràng.
Hợp đồng thép cây trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải giảm 0,6% xuống 3.941 CNY/tấn, giá đóng cửa thấp nhất kể từ ngày 24/6. Thép cuộn cán nóng kết thúc phiên giảm 0,4% xuống thấp nhất một tuần tại 3.866 CNY/tấn.
Trên thị trường nông nghiệp, giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 9/2019 đóng cửa giảm 2,8 US cent hay 2,7% xuống 1,023 USD/lb sau khi giảm xuống mức thấp nhất một tháng tại 1,0215 USD. Đây là phiên giảm giá thứ 3 liên tiếp. Các đại lý cho biết giá giảm một phần do đồng real của Brazil yếu. Đồng real yếu có thể khuyến khích nhà sản xuất bán ra.
Cà phê robusta kỳ hạn tháng 9/2019 chốt phiên giảm 24 USD hay 1,7% xuống 1.369 USD/tấn.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 10/2019 kết thúc phiên tăng 0,42 US cent hay 3,6%, sau khi giao dịch với khối lượng lớn. Giá đã giảm xuống mức thấp 11,39 US cent, áp lực bởi nguồn cung ngắn hạn dồi dào, nhưng theo biểu đồ thì khả năng giữ trên 11,36 US cent, mức thấp nhất kể từ ngày 21/5 đã khuyến khích giá đảo chiều.
Giá đường cũng được hỗ trợ từ dự đoán của tổ chức ngành mía Unica trong tuần này sẽ chỉ ra sản lượng đường giảm đáng kể tại Brazil. Mặc dù nguồn cung đường trong ngắn hạn tại Ấn Độ và Thái Lan là dồi dào, các đại lý đang theo dõi khả năng giảm sản lượng đường trong tương lai do thời tiết khô hạn.
Trong khi đó tại Brazil, các nhà máy tiếp tục ưu tiên sản xuất ethanol. Với mức giá ethanol khoảng 14,45 US cent, không có động cơ nào cho các nhà máy ở Brazil sản xuất đường trừ khi họ có hợp đồng xuất khẩu. Xuất khẩu đường của Brazil trong tháng 7 giảm xuống mức thấp nhất 5 năm, do các nhà máy hạn chế xuất khẩu đường trong bối cảnh giá toàn cầu sụt giảm.
Giá đường trắng kỳ hạn tháng 10/2019 đóng cửa tăng 3,2 USD hay 1% lên 318,3 USD/tấn.
Giá cao su kỳ hạn trên sàn giao dịch hàng hóa Tokyo (TOCOM) đóng cửa tăng do giá ở Thượng Hải mạnh lên. Hợp đồng cao su TOCOM kỳ hạn tháng 12/2019 đóng cửa tăng 2,5 JPY lên 187 JPY/kg. Giá cao su kỳ hạn tháng 9/2019 trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải tăng 55 CNY (8 USD) lên 10.695 CNY/tấn.
Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

56,77

+0,55

 

Dầu Brent

USD/thùng

63,84

+0,57

 

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

40.220,00

+510,00

+1,28%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,28

-0,02

-0,70%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

185,28

-0,77

-0,41%

Dầu đốt

US cent/gallon

192,12

-0,05

-0,03%

Dầu khí

USD/tấn

589,00

+4,00

+0,68%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

58.140,00

+480,00

+0,83%

Vàng New York

USD/ounce

1.420,70

-1,00

-0,07%

Vàng TOCOM

JPY/g

4.932,00

+19,00

+0,39%

Bạc New York

USD/ounce

16,50

+0,02

+0,15%

Bạc TOCOM

JPY/g

56,90

+0,60

+1,07%

Bạch kim

USD/ounce

859,17

+3,00

+0,35%

Palađi

USD/ounce

1.521,80

-2,67

-0,18%

Đồng New York

US cent/lb

270,35

+0,35

+0,13%

Đồng LME

USD/tấn

5.968,00

-49,50

-0,82%

Nhôm LME

USD/tấn

1.816,00

0,00

0,00%

Kẽm LME

USD/tấn

2.436,00

+19,00

+0,79%

Thiếc LME

USD/tấn

17.675,00

-225,00

-1,26%

Ngô

US cent/bushel

430,75

-0,75

-0,17%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

488,75

+1,50

+0,31%

Lúa mạch

US cent/bushel

266,25

-0,75

-0,28%

Gạo thô

USD/cwt

11,97

+0,05

+0,42%

Đậu tương

US cent/bushel

902,25

-1,50

-0,17%

Khô đậu tương

USD/tấn

312,10

-0,40

-0,13%

Dầu đậu tương

US cent/lb

28,51

+0,03

+0,11%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

446,60

-0,90

-0,20%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.475,00

-57,00

-2,25%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

102,30

-2,80

-2,66%

Đường thô

US cent/lb

11,98

+0,42

+3,63%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

101,50

-1,55

-1,50%

Bông

US cent/lb

63,53

-0,20

-0,31%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

332,70

-11,30

-3,28%

Cao su TOCOM

JPY/kg

186,70

-0,30

-0,16%

Ethanol CME

USD/gallon

1,50

+0,04

+2,39%

Nguồn: VITIC/Bloomberg, Reuters