Năng lượng: Giá dầu tăng 6% trong tháng 6
Giá dầu giảm nhẹ trong phiên giao dịch cuối cùng của tháng 6 khi các nhà đầu tư cân nhắc thông tin nhu cầu nhiên liệu của Mỹ yếu và số liệu lạm phát tháng 5 làm gia tăng kỳ vọng Cục Dự trữ Liên bang (Fed) sẽ bắt đầu cắt giảm lãi suất trong năm nay.
Kết thúc phiên này, giá dầu Brent giao tháng 8 tăng 0,02 USD lên 86,41 USD/thùng. Hợp đồng dầu Brent kỳ hạn tháng 9 giảm 0,3% xuống 85 USD/thùng. Dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 0,2 USD, hay 0,24%, xuống 81,54 USD/thùng.
Tính chung trong tuần 24-28/6, giá dầu Brent tăng nhẹ 0,02%, trong khi dầu WTI giảm 0,2%. Tính chung trong tháng 6/2024, cả 2 loại dầu tăng 6%.
Theo báo cáo của Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ, trong khi sản lượng và nhu cầu dầu của Mỹ tháng 4 tăng tháng thứ 4 liên tiếp, nhu cầu xăng giảm 8,83 triệu thùng/ngày, thấp nhất kể từ tháng 2.
"Báo cáo hàng tháng từ EIA cho thấy nhu cầu xăng khá thấp", Phil Flynn, nhà phân tích tại Price Futures Group cho biết. "Những con số đó thực sự không truyền cảm hứng cho việc mua nhiều hơn".
Các nhà phân tích cho biết một số nhà giao dịch đã chốt lời vào cuối quý 2 vì giá tăng vào đầu tháng này.
Chỉ số giá tiêu dùng cá nhân PCE của Mỹ không đổi trong tháng 5, làm dấy lên hy vọng về việc Fed sẽ cắt giảm lãi suất vào tháng 9.
Tuy nhiên, có rất ít phản ứng trên các thị trường tài chính. Đối với các thương nhân dầu mỏ thông tin này không được chú ý, Charalampos Pissouros, nhà phân tích đầu tư cấp cao tại công ty môi giới XM cho biết.
Các nhà giao dịch hiện đang định giá 64% khả năng Fed cắt giảm lãi suất lần đầu tiên vào tháng 9, tăng từ mức 50% một tháng trước.
Thị trường ngày càng hy vọng vào chu kỳ nới lỏng chính sách của Fed và điều đó đã làm bùng nổ một đợt tăng nhu cầu đối với các tài sản rủi ro trên khắp các thị trường chứng khoán. Theo công cụ FedWatch của CME, các nhà giao dịch hiện đang định giá 64% khả năng Fed sẽ cắt giảm lãi suất lần đầu tiên vào tháng 9, tăng từ 50% so với một tháng trước.
Việc giảm lãi suất có thể thúc đẩy giá dầu dầu vì nó có thể làm tăng nhu cầu của người tiêu dùng.
"Có nhiều yếu tố hội tụ có lợi cho giá dầu, trong đó có sức mạnh tiềm ẩn trong các yếu tố cơ bản cũng như căng thẳng địa chính trị ", nhà phân tích Amarpreet Singh của Barclays cho biết. Barclays dự kiến dầu thô Brent vẫn quanh 90 USD/thùng trong những tháng tới.
Giá dầu có thể không thay đổi nhiều trong nửa cuối năm 2024, với lo ngại về nhu cầu của Trung Quốc và khả năng nguồn cung tăng từ các nhà sản xuất đối lập với rủi ro địa chính trị.
Công ty dịch vụ năng lượng Baker Hughes cho biết số giàn khoan dầu hoạt động của Mỹ giảm 6 giàn xuống 479 giàn trong tuần này, thấp nhất kể từ tháng 12/2021.
Theo kết quả thăm dò của hãng tin Reuters, giá dầu Brent dự kiến đạt trung bình 83,93 USD/thùng trong năm 2024, dầu WTI đạt 79,72 USD.
Kim loại quý: Giá vàng tăng hơn 4% trong quý II
Giá vàng ổn định vào thứ Sáu và kết thúc quý tăng thứ 3 liên tiếp sau khi báo cáo lạm phát quan trọng của Mỹ nhìn chung phù hợp với dự đoán, làm tăng kỳ vọng rằng Cục Dự trữ Liên bang có thể cắt giảm lãi suất vào tháng 9.
Kết thúc phiên 28/6, giá vàng giao ngay ổn định ở mức 2.326,47 USD/ounce. Hợp đồng vàng kỳ hạn tương lai tăng 0,1% lên 2.339,6 USD.
Tính chung trong quý II, giá vàng tăng hơn 4%.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao ngay trong phiên thứ Sáu tăng 0,3% lên 29,15 đô la và bạch kim tăng khoảng 1% lên 997,13 đô la. Cả hai kim loại này đều tăng giá trong quý II.
Giá palladium giao ngay tăng khoảng 5% lên 975,45 đô la, nhưng giảm trong quý II và là quý giảm thứ 3 liên tiếp.
"Lạm phát tiếp tục xu hướng giảm. Do đó, chúng ta hy vọng lợi suất sẽ tiếp tục giảm, trái phiếu tăng và điều đó phần nào hỗ trợ cho thị trường vàng", David Meger, giám đốc phụ trách đầu tư thay thế và giao dịch tại High Ridge Futures cho biết.
Vàng cũng được hỗ trợ bởi lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ giảm, khiến vàng thỏi trở nên hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư.
Thị trường hiện tăng tỷ lệ đặt cược rằng Cục Dự trữ Liên bang sẽ cắt giảm lãi suất vào tháng 9 và một lần nữa vào tháng 12, sau khi Chỉ số chi tiêu tiêu dùng cá nhân cho thấy lạm phát của Mỹ không tăng chút nào từ tháng 4 đến tháng 5. Các nhà giao dịch hiện đang dự đoán khoảng 68% khả năng Fed sẽ cắt giảm lãi suất vào tháng 9, so với 64% trước khi công bố dữ liệu lạm phát, theo công cụ FedWatch của CME.
Chỉ số PCE theo sau mức tăng 0,3% chưa được điều chỉnh trong dữ liệu tháng 4 vào tháng trước, trong khi chi tiêu của người tiêu dùng tăng ở mức vừa phải.
"Giá vàng đã giao dịch trong phạm vi khá hẹp và có thể sẽ giữ nguyên phạm vi này cho đến khi FOMC xác nhận họ sẽ cắt giảm lãi suất", Chris Gaffney, người phụ trách bộ phận nghiên cứu thị trường thế giới tại EverBank cho biết.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng giảm 6 tuần liên tiếp
Giá đồng tăng trong phiên thứ Sáu sau khi số liệu lạm phát của Mỹ đáng khuyến khích có thể hỗ trợ việc cắt giảm lãi suất trong tương lai, trong khi một số nhà giao dịch tiến hành mua hợp đồng tương lai sau khi họ không thể phá vỡ dưới mức hỗ trợ quan trọng.
Kết thúc phiên này, giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn giao dịch kim loại London (LME) tăng 0,9% lên 9.597 USD/tấn. Đồng Mỹ trên sàn Comex tăng 1,1% lên 4,39 USD/lb.
Chỉ số USD giảm hỗ trợ thị trường kim loại, khiến các hàng hóa định giá bằng USD rẻ hơn cho người mua bàng các đồng tiền khác.
Tuy nhiên, tính chung trong tháng 6, giá đồng trên sàn LME giảm 4% và đã trải qua 6 tuần liêntiếp giảm giá.
Chỉ số chi tiêu tiêu dùng cá nhân (PCE), thước đo lạm phát ưa thích của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ, đã cung cấp số liệu đáng khích lệ cho thấy lạm phát đang hạ nhiệt.
Cũng có hoạt động mua đồng sau khi giá giữ trên mức hỗ trợ quan trọng 9.480 USD/tấn trong ngày 27/6. Việc phá vỡ dưới mức đó có thể khiến giá tiếp tục giảm xuống khoảng 9.100 USD.
"Lực đẩy và kéo của thị trường kim loại cơ bản hiện tại gần như quá nhạy cảm với triển vọng cắt giảm lãi suất của Fed", chiến lược gia hàng hóa Nitesh Shah của WisdomTree cho biết. Ông nói thêm: "ECB và Thụy Sĩ đã hạ lãi suất và câu hỏi đặt ra là khi nào lạm phát sẽ hạ nhiệt đủ để Fed thực hiện động thái của mình. Dữ liệu chúng tôi nhận được có vẻ ủng hộ điều này, vì vậy việc cắt giảm lãi suất có thể diễn ra tương đối sớm".
Sau khi tăng lên mức cao kỷ lục là 11.104,50 đô la vào ngày 20 tháng 5, giá đồng đã giảm 14% kể từ đó, một phần là do dữ liệu kinh tế chậm chạp từ Trung Quốc và sự không chắc chắn về lãi suất của Mỹ.
"Tôi nghĩ chúng ta sẽ thấy giá đồng trung bình khoảng 9.500 đô la một tấn trong năm nay, nhưng giá có khả năng sẽ tăng trên 10.500 đô la vào cuối năm, khi Fed cắt giảm lãi suất ", nhà phân tích Natalie Scott-Gray của StoneX cho biết.
Về những kim loại cơ bản khác, trên sàn LME phiên cuối tháng, giá kẽm tăng 0,5% lên 2.943 USD/tấn, mặc dù lượng hàng tồn kho của sàn LME tăng 9% lên mức cao nhất trong gần ba tháng. Giá nhôm tăng 1,4% lên 2.527 đô la một tấn, niken tăng 0,7% lên 17.230 đô la, chì tăng 2% lên 2.224,50 đô la và thiếc tăng 1,9% lên 32.805 đô la.
Giá quặng sắt tăng trong phiên cuối tháng, tính chung cả tuần cũng tăng do dư âm của gói kích thích mới nhất dành cho lĩnh vực bất động sản Trung Quốc và nhu cầu ổn định, mặc dù dự trữ cao kéo dài đã hạn chế đà tăng.
Hợp đồng quặng sắt kỳ hạn tháng 9 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên, Trung Quốc kết thúc phiên này tăng 0,18% lên 825 CNY (113,52 USD)/tấn, tính chung cả tuần tăng 0,5%.
Tại Singapore quặng sắt giao tháng 8 tăng 1,09% lên 106,4 USD/tấn, tăng 1,2% trong tuần này.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép thanh giảm 0,2%, thép cuộn cán nóng thay đổi ít, dây thép cuộn giảm 0,5% và thép không gỉ tăng gần 0,3%.
Thủ đô Bắc Kinh của Trung Quốc đã cùng ba thành phố hàng đầu khác giảm chi phí mua nhà bằng cách cắt giảm lãi suất vay thế chấp và tỷ lệ thanh toán trước tối thiểu.
Sản lượng kim loại nóng hàng ngày của các nhà sản xuất thép được khảo sát ở mức khá cao khoảng 2,39 triệu tấn tính tới ngày 27/6, bất chấp giảm 0,2% trong tuần, theo số liệu của công ty tư vấn Mysteel.
Nông sản: Giá lúa mì giảm 16% trong tháng 6
Phiên thứ Sáu, giá lúa mì và ngô Mỹ giảm do báo cáo về diện tích trồng của Bộ Nông nghiệp Mỹ được phát hành cho thấy diện tích trồng trò cao hơn dự kiến.
Kết thúc phiên này, giá lúa mì đỏ mềm vụ đông trên sàn Chicago (CBOT) kỳ hạntháng 9 giảm 6 US cent xuống 5,73-1/2 USD/bushel. Tính chung trong tháng 6, giá lúa mì đã giảm khoảng 16% trong tháng, mức giảm mạnh nhất kể từ tháng 6/2022.
Giá ngô kỳ hạn tháng 9 giảm 15 US cent xuống 4,07-1/2 USD/bushel sau khi có thời điểm giảm dưới 4 USD/bushel; tính chung cả tuần giá giảm hơn 6%, giảm tuần thứ hai liên tiếp.
Giá đậu tương kỳ hạn tháng 11 giảm 3/4 US cent xuống 11,04 USD/bushel.
USDA ước tính diện tích trồng ngô Mỹ đến nay là 91,5 triệu acre, cao hơn kỳ vọng của các nhà phân tích là 90,4 triệu acre. Vào tháng 3, USDA dự kiến nông dân sẽ trồng 90 triệu mẫu Anh.
Ước tính này đã gây áp lực giảm lên giá ngô kỳ hạn tương lai, vì diện tích trồng lớn hơn dự kiến sẽ bổ sung vào nguồn cung ngô Mỹ lên mức cao nhất trong nhiều năm.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 7 đóng cửa phiên thứ Sáu tăng 0,09 US cent, hay 0,4%m lên 20,3 US cent/lb sau khi có lúc tăng lên mức cao nhất 2,5 tháng; tính chung cả tuần giá tăng 7%.
Giá đường thô gần đây tăng do kết quả thu hoạch đáng thất vọng tại Brazil trong tháng 5. Tổ chức Unica cho biết sản lượng đường và mía ép của Brazil trong nửa đầu tháng 6 cao hơn dự kiến.
Đường trắng kỳ hạn tháng 8 phiên này tăng 2,3% lên 598,4 USD/tấn.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 9 đóng cửa phiên thứ Sáu tăng 0,45 US cent hay 0,2% lên 2,268 USD/lb; cà phê robusta kỳ hạn tháng 9 giảm 0,9% xuống 4.011 USD/tấn. Vụ thu hoạch ở Brazil đang tiến hành với tiến độ cao.
Dữ liệu cho thấy xuất khẩu cà phê robusta từ Indonesia, nhà xuất khẩu lớn thứ hai thế giới đã giảm 54% trong tháng 5 so với cùng tháng năm trước.
Giá cao su Nhật Bản giảm trong phiên cuối tháng và tính chung trong tháng 6 cũng giảm do nhu cầu yếu và nguồn cung phục hồi trước mùa đông.
Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 12 trên sàn giao dịch Osaka đóng cửa phiên này giảm 4,1 JPY hay 1,23% xuống 328,5 JPY (2,04 USD)/kg.
Tính chung trong tháng 6, hợp đồng này đã giảm 3,67% ngay cả khi tăng 0,31% trong tuần cuối tháng sau khi giảm trong hai tuần liên tiếp.
Tại Thượng Hải hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 9 giảm 105 CNY xuống 14.955 CNY (2.058,1 USD)/tấn.
Hợp đồng cao su giao tháng 7 trên sàn giao dịch SICOM của sàn Singapore được giao dịch ở mức 163,8 cent Mỹ/kg, giảm 0,9% so với phiên trước.
"Sàn OSE theo dõi chặt chẽ tình hình nguồn nguyên liệu thô của Thái Lan và khi thời kỳ trú đông kết thúc, giá nguyên liệu thô trung bình đã giảm và bình thường trở lại kể từ đầu tháng 6", Farah Miller, Giám đốc điều hành của công ty dữ liệu độc lập tập trung vào cao su Helixtap Technologies cho biết.
Giá cao su tấm hun khói loại xuất khẩu chuẩn của Thái Lan RSS3 và cao su khối STR20 giảm tương ứng 14,2% và 6,76% trong tháng 6.
Cơ quan khí tượng Thái Lan cảnh báo về "mưa lớn đến rất lớn và lượng mưa tích tụ có thể gây ra lũ quét và dòng chảy" từ ngày 28 tháng 6 đến ngày 3 tháng 7.
Hoạt động tại các nhà máy sản xuất lốp xe bán kính toàn thép tại Trung Quốc, quốc gia tiêu thụ hàng đầu thế giới, vẫn trầm lắng so với tháng trước, công ty tư vấn Longzhong có trụ sở tại Trung Quốc cho biết, đồng thời nói thêm rằng nhiệt độ cao đã làm giảm một phần năng lực sản xuất của các nhà máy sản xuất lốp xe.
Diễn biến giá hàng hóa:
|
ĐVT
|
Giá 31/5
|
28/6/6
|
28/6 so với 27/6
|
28/6 so với 27/6 (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
76,99
|
81,91
|
+0,37
|
+0,45%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
81,11
|
85,35
|
+0,35
|
+0,41%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
241,74
|
252,75
|
+2,60
|
+1,04%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,59
|
2,57
|
-0,03
|
-1,04%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
238,42
|
255,34
|
+2,03
|
+0,80%
|
Vàng (Comex)
|
USD/ounce
|
2.345,80
|
2.335,60
|
-4,00
|
-0,17%
|
Vàng giao ngay
|
USD/ounce
|
2.327,33
|
2.326,50
|
-0,25
|
-0,01%
|
Bạc (Comex)
|
USD/ounce
|
30,44
|
29,38
|
-0,18
|
-0,63%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/ounce
|
1.038,45
|
994,46
|
-1,80
|
-0,18%
|
Đồng (Comex)
|
US cent/lb
|
460,20
|
437,20
|
-1,95
|
-0,44%
|
Đồng (LME)
|
USD/tấn
|
10.040,00
|
9.599,00
|
+83,50
|
+0,88%
|
Nhôm (LME)
|
USD/tấn
|
2.652,50
|
2.524,50
|
+32,00
|
+1,28%
|
Kẽm (LME)
|
USD/tấn
|
2.969,50
|
2.937,50
|
+8,00
|
+0,27%
|
Thiếc (LME)
|
USD/tấn
|
33.042,00
|
32.739,00
|
+531,00
|
+1,65%
|
Ngô (CBOT)
|
US cent/bushel
|
446,25
|
421,25
|
+0,50
|
+0,12%
|
Lúa mì (CBOT)
|
US cent/bushel
|
678,50
|
576,25
|
+2,75
|
+0,48%
|
Lúa mạch (CBOT)
|
US cent/bushel
|
387,50
|
325,50
|
+2,25
|
+0,70%
|
Gạo thô (CBOT)
|
USD/cwt
|
15,78
|
15,47
|
+0,08
|
+0,52%
|
Đậu tương (CBOT)
|
US cent/bushel
|
1.205,00
|
1.104,25
|
+0,25
|
+0,02%
|
Khô đậu tương (CBOT)
|
USD/tấn
|
364,70
|
333,90
|
-1,60
|
-0,48%
|
Dầu đậu tương (CBOT)
|
US cent/lb
|
45,52
|
44,28
|
+0,49
|
+1,12%
|
Hạt cải (ICE)
|
CAD/tấn
|
661,00
|
627,10
|
+6,00
|
+0,97%
|
Cacao (ICE)
|
USD/tấn
|
9.331,00
|
7.731,00
|
+458,00
|
+6,30%
|
Cà phê (ICE)
|
US cent/lb
|
222,35
|
226,80
|
+0,45
|
+0,20%
|
Đường thô (ICE)
|
US cent/lb
|
18,30
|
20,30
|
+0,09
|
+0,45%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh (ICE)
|
US cent/lb
|
437,20
|
413,20
|
-13,20
|
-3,10%
|
Bông (ICE)
|
US cent/lb
|
75,11
|
72,73
|
+0,04
|
+0,05%
|
Lông cừu (ASX)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ (CME)
|
USD/1000 board feet
|
--
|
--
|
--
|
--
|
Cao su Singapore
|
US cent/kg
|
180,20
|
167,70
|
-1,80
|
-1,06%
|
Ethanol (CME)
|
USD/gallon
|
2,16
|
2,16
|
0,00
|
0,00%
|