Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng trở lại sau khi nhà sản xuất dầu hàng đầu thế giới là Saudi Arabia bác bỏ lời kêu gọi bổ sung thêm nguồn cung và Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) cho biết giá khí tự nhiên đang tăng vọt có thể thúc đẩy nhu cầu dầu cho nhà máy điện.
Kết thúc phiên, giá dầu ngọt nhẹ (WTI) tăng 87 US cent lên 81,31 USD/thùng, mức đóng cửa cao nhất trong 7 năm; dầu Brent Biển Bắc giao kỳ hạn tăng 82 US cent lên 84 USD/thùng mức cao nhất kể từ tháng 10/2018.
Trong báo cáo định kỳ hàng tháng, IEA đã nâng dự báo tăng trưởng nhu cầu dầu toàn cầu trong năm 2022 thêm 210.000 thùng/ngày, và hiện kỳ vọng tổng nhu cầu dầu trong năm 2022 đạt 99,6 triệu thùng/ngày, cao hơn một chút so với mức trước đại dịch.
IEA cho biết, nhu cầu dầu dự kiến sẽ tăng 500.000 thùng/ngày khi ngành điện và các ngành công nghiệp nặng chuyển đổi từ các nguồn năng lượng đắt đỏ hơn, đồng thời cảnh báo rằng cuộc khủng hoảng năng lượng có thể gây ra lạm phát và làm chậm quá trình phục hồi kinh tế thế giới sau đại dịch.
Saudi Arabia đã bác bỏ lời kêu gọi gia tăng sản lượng cho OPEC+, nói rằng việc nhóm này không nới lỏng cắt giảm sản lượng là đang bảo vệ thị trường dầu khỏi những biến động giá mạnh như trên thị trường khí thiên nhiên và than.
Các nhà sản xuất dầu đá phiến của Mỹ đã miễn cưỡng đầu tư vào việc gia tăng sản lượng sau nhiều năm lợi nhuận thấp. Sản lượng dầu của Mỹ vẫn thấp hơn rất nhiều so với mức kỷ lục gần 13 triệu thùng/ngày của năm 2019. Vào ngày 13/10, Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) cho biết sản lượng sẽ phục hồi lên 11,7 triệu thùng/ngày trong năm 2022.
Nhà Trắng đã thảo luận với các nhà sản xuất dầu và khí đốt về chi phí nhiên liệu, giữa bối cảnh giá xăng bán lẻ đang ở mức đỉnh 7 năm và giá dầu sưởi ấm trong mùa Đông năm nay dự kiến sẽ tăng vọt.
Tuy nhiên, thị trường xăng dầu Mỹ có dấu hiệu bớt căng thẳng. Dự trữ dầu thô của Mỹ tăng ngoài dự đoán. Theo đó, dự trữ dầu thô tại Mỹ trong tuần vừa qua tăng 6 triệu thùng, cao hơn nhiều so với dự báo tăng 702.000 thùng từ các nhà phân tích. Sản lượng dầu tại Mỹ cũng tăng cao, đạt 11,4 triệu thùng/ngày.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng lên mức cao nhất trong vòng một tháng do đồng USD và lợi suất trái phiếu giảm cho phép nhà đầu tư tìm đến vàng như là “nơi trú ẩn an toàn”. Số liệu về tình hình việc làm tốt hơn tại Mỹ dường như cũng không có tác động gì đến thị trường vàng.
Cuối phiên giao dịch, giá vàng giao ngay tăng 0,2% lên 1.796,59 USD/ounce, sau khi có lúc đạt mức cao nhất kể từ ngày 15/9 tại 1.800,12 USD/ounce; vàng giao sau tăng 0,2% lên 1.797,9 USD/ounce.
Chuyên gia tích cấp cao của Kitco Metals, Jim Wyckoff cho biết các nhà giao dịch và nhà đầu tư cuối cùng cũng nhận ra rằng lạm phát tăng là xu hướng tăng giá của kim loại, cho dù Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) có làm gì đi chăng nữa. Theo ông, trường chứng khoán biến động mạnh hơn trong tháng này cũng có thể thúc đẩy nhà đầu tư tìm đến các kênh đầu tư an toàn, như vàng.
Ông Wyckoff cho biết thêm thị trường chứng khoán biến động mạnh hơn trong tháng này cũng có thể thúc đẩy nhà đầu tư tìm đến các kênh đầu tư an toàn, như vàng.
Tuy nhiên, niềm tin của nhà đầu tư trên thị trường vẫn yếu ớt trong bối cảnh cuộc khủng hoảng năng lượng trên toàn cầu đã làm dấy lên lo ngại rằng giá cả tăng có thể làm chậm tăng trưởng.
Mặc dù vàng được coi là “nơi trú ẩn an toàn” trong thời kỳ lạm phát, song việc rút lại các chương trình kích thích kinh tế và tăng lãi suất sẽ đẩy lợi suất trái phiếu chính phủ lên cao, làm tăng chi phí cơ hội nắm giữ tài sản không sinh lời như vàng.
Giá sản xuất của Trung Quốc đã tăng kỷ lục trong tháng 9/2021 và giá tiêu dùng của Mỹ cũng tăng, làm dấy lên lo ngại rằng các ngân hàng trung ương có thể rút lại các chương trình kích thích kinh tế sớm hơn dự kiến. Biên bản cuộc họp mới nhất của Fed cho thấy thể chế này có thể bắt đầu giảm dần chương trình kích thích vào giữa tháng 11/2021.
Nhà phân tích độc lập Ross Norman nhận định rằng hiện thị trường có thể suy đoán một chút về kế hoạch giảm dần chương trình kích thích kinh tế của Fed, và động thái đó dường như vẫn tích cực với vàng. Giá vàng có thể đối mặt với mức kháng cự kỹ thuật khoảng 1.800-1.835 USD/ounce.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao ngay tăng 1,7% lên 23,45 USD/ounce, giá palladium tăng 1,4% lên 2.136,18 USD/ounce. Hai kim loại quý này đều từng chạm mức cao của một tháng trước đó. Giá bạch kim tăng 3,1% lên 1.051,78 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá kim loại cơ bản đồng loạt tăng, kẽm tiếp tục lập đỉnh cao mới do cuộc khủng hoảng năng lượng ảnh hưởng đến sản lượng kim loại.
Giá kẽm tăng lên mức cao nhất trong 14 năm sau khi giá điện tăng khiến sản xuất bị cắt giảm tại nhà sản xuất kẽm lớn Nyrstar.
Giá kẽm trên sàn LME tăng 3,7% lên 3.526 USD/tấn, cao nhất kể từ tháng 7/2007. Kim loại này được dùng để mạ thép đã có phiên tăng giá thứ sáu liên tiếp. Giá kẽm có thể tiếp tục tăng ít nhất trước khi cuộc khủng hoảng năng lượng hiện nay kết thúc.
Giá bán buôn tại các nhà máy ở Trung Quốc tăng nhanh hơn dự kiến trong tháng 9, bởi giá nguyên liệu thô tăng cao, các doanh nghiệp chịu áp lực phải vật lộn với việc hạn chế năng lượng và tắc nghẽn nguồn cung.
Với những kim loại cơ bản khác, giá đồng tăng 2% lên 9.835 USD/tấn, nhôm tăng 3,4% lên 3.171 USD/tấn, chì tăng 1,5% lên 2.281 USD/tấn, thiếc cao kỷ lục 37.130 USD/tấn, và nickel tăng 2,3% lên 19.360 USD/tấn.
Trái với kim loại cơ bản, kim loại đen giảm giá trong phiên này. Theo đó, giá quặng sắt Đại Liên giảm phiên thứ hai liên tiếp do triển vọng nhu cầu của Trung Quốc ảm đạm khi Bắc Kinh quyết liệt hơn dự kiến trong việc kiểm soát sản lượng thép trong quý 1/2022.
Chính phủ Trung Quốc đang tìm cách hạn chế sản xuất thép để đảm bảo bầu không khí trong lành, đã yêu cầu các nhà máy ở nhiều thành phố thuộc miền bắc Trung Quốc cắt giảm sản xuất từ 15/11/2021 tới 15/3/2022. Điều đó đã ảnh hưởng tới tâm lý thị trường vốn đã lo lắng về sự sụt giảm rộng lớn trong lĩnh vực bất động sản của Trung Quốc sau khủng hoảng tại tập đoàn Evergrande và cuộc khủng hoảng năng lượng ngày càng tồi tệ.
Quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2022 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên đóng cửa phiên giao dịch giảm 2,9% xuống 736 CNY (114,37 USD)/tấn, sau khi chạm 712 CNY, mức thấp nhất kể từ ngày 30/9 trong phiên giao dịch này.
Trên sàn giao dịch Singapore, quặng sắt tăng 2,4% lên 124,1 USD/tấn sau hai ngày sụt giảm.
Quặng sắt giao ngay tại Trung Quốc ở mức 126,5 USD/tấn trong ngày 13/10, thấp hơn 46% so với mức kỷ lục hồi giữa tháng 5, theo công ty tư vấn SteelHome.
Thép thanh tại Thượng Hải giảm 0,2%, trong khi thép cuộn cán nóng tăng 0,3%. Thép không gỉ tăng 0,4%.
Trên thị trường nông sản, giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2022 đóng cửa giảm 0,27 US cent hay 1,4% xuống 19,59 US cent/lb, chạm mức thấp nhất kể từ cuối tháng 9 tại 19,48 US cent/lb; đường trắng kỳ hạn tháng 12 giảm 1,2 USD hay 0,2% xuống 512,9 USD/tấn. Các nhà đầu cơ đang điều chỉnh vị thế khi Mỹ có động thái giảm thanh khoản.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 12 đóng cửa tăng 0,6 US cent hay 0,3% lên 2,0925 USD/lb; cà phê robusta kỳ hạn tháng 11 tăng 2 USD hay 0,1% lên 2.135 USD/tấn.
Xuất khẩu cà phê của Brazil trong tháng 9 giảm 29% so với một năm trước, do tiếp tục tắc nghẽn trong vận chuyển.
Xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong tháng 9 giảm 10,2% so với tháng 8, đạt 100.340 tấn. Trong 9 tháng đầu năm cả nước xuất khẩu 1,18 triệu tấn, giảm 5,4% so với cùng kỳ năm trước.
Giá cao su Nhật Bản giảm do tâm lý lo ngại giá năng lượng tăng cao có thể dẫn tới hoạt động sản xuất chậm lại trên thế giới và sự phục hồi kinh tế toàn cầu có thể chệch quỹ đạo. Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 3/2022 trên sàn giao dịch Osaka đóng cửa giảm 1,3 JPY xuống 224 JPY (2 USD)/kg, sau khi tăng lên mức cao 229 JPY trong phiên này. Giá cao su Thượng Hải kỳ hạn tháng 1 giảm 80 CNY xuống 14.515 CNY (2.255 USD)/tấn.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
81,77
|
+0,46
|
+0,57%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
84,48
|
+0,48
|
+0,57%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
52.190,00
|
+420,00
|
+0,81%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
5,61
|
-0,08
|
-1,35%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
243,99
|
+0,49
|
+0,20%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
257,20
|
+1,06
|
+0,41%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
739,50
|
+12,00
|
+1,65%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
73.940,00
|
+230,00
|
+0,31%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.795,70
|
-2,20
|
-0,12%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
6.561,00
|
+30,00
|
+0,46%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
23,56
|
+0,08
|
+0,35%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
86,60
|
+2,00
|
+2,36%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
1.062,40
|
+2,89
|
+0,27%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
2.134,72
|
+1,53
|
+0,07%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
463,80
|
+0,65
|
+0,14%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
9.984,00
|
+333,00
|
+3,45%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
3.117,00
|
+49,00
|
+1,60%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
3.528,50
|
+127,00
|
+3,73%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
36.923,00
|
+537,00
|
+1,48%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
515,50
|
-1,25
|
-0,24%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
724,00
|
-0,75
|
-0,10%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
639,00
|
+3,75
|
+0,59%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
13,94
|
+0,07
|
+0,47%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.205,50
|
-0,75
|
-0,06%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
314,20
|
+0,10
|
+0,03%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
60,52
|
+0,08
|
+0,13%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
901,00
|
-2,10
|
-0,23%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.584,00
|
-18,00
|
-0,69%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
209,25
|
+0,60
|
+0,29%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
19,59
|
-0,27
|
-1,36%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
123,10
|
-0,30
|
-0,24%
|
Bông
|
US cent/lb
|
108,06
|
+0,96
|
+0,90%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
772,00
|
+13,70
|
+1,81%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
173,30
|
+1,40
|
+0,81%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
2,21
|
0,00
|
0,00%
|