Theo số liệu thống kê của TCHQ, tháng 7 xuất khẩu 15,3 nghìn tấn chè, thì sang tháng 8 xuất khẩu chè giảm nhẹ, giảm 2,9%, tương đương với 14,9 nghìn tấn . Tiếp tục đà giảm cho đến tháng 9, giảm 16,4% so với tháng 8, với lượng xuất 12,4 nghìn tấn, trị giá 20 triệu USD. Tuy nhiên, sang đến tháng 10, xuất khẩu chè tăng nhẹ so với tháng trước đó, tăng 2,4% về lượng với 12,7 nghìn tấn, trị giá 18,5 triệu USD, giảm 7,11%. Tính chung từ đầu năm cho đến hết tháng 10 năm 2011, cả nước đã xuất khẩu 109,7 nghìn tấn, trị giá 166,9 triệu USD, giảm 1,1% về lượng nhưng tăng 2,6% về trị giá so với cùng kỳ năm 2010, đạt 78,4% kế hoạch năm.

Indonesia, Đài Loan, Nga, Pakistan … là những thị trường xuất khẩu chè của Việt Nam. Trong đó Indonesia có lượng xuất cao nhất trong tháng với 1,9 nghìn tấn chè các loại, trị giá 1,7 triệu USD, tăng 32,22% về lượng và tăng 21,64% so với tháng liền kề trước đó. Tuy nhiên, tính chung 10 tháng đầu năm, lượng chè xuất khẩu sang Indonesia chỉ đạt có trên 9 nghìn tấn, trị giá 8,9 triệu USD.

Tuy đứng thứ 2 về lượng xuất trong tháng 10, nhưng 10 tháng đầu năm lượng chè xuất khẩu sang Đài Loan lại có lượng cao nhất, đạt 17,2 nghìn tấn, chiếm 15,6% tỷ trọng, trị giá 21,8 triệu USD. Tính riêng tháng 10, thì xuất khẩu chè sang Đài Loan giảm cả về lượng và trị giá so với tháng liền kề trước đó, giảm lần lượt 19,4% và 22,61%, tương đương với 1,5 nghìn tấn và trị giá 1,9 triệu USD.

Đứng thứ hai về lượng xuất trong 10 tháng đầu năm nay, Pakistan đạt 14,2 nghìn tấn, trị giá 26,5 triệu USD. Tính riêng tháng 10, xuất 1,4 nghìn tấn chè sang thị trường này, đạt tri jgias 2,5 triệu USD, tăng 12,27% về lượng và tăng 2,85% về trị giá so với tháng 9/2011.

Thị trường xuất khẩu chè tháng 10, 10 tháng năm 2011

ĐVT: Lượng (tấn); Trị giá (USD)

Thị trường

KNXK T10/2011

KNXK 10T/2011

% tăng giảm T10 so T9

lượng

trị giá

lượng

trị giá

lượng

trị giá

Tổng KN

12.757

18.583.317

109.738

166.997.527

2,46

-7,11

Indonesia

1.982

1.705.389

9.067

8.991.320

32,22

21,64

Đài Loan

1.562

1.988.929

17.223

21.875.071

-19,40

-22,61

Nga

1.466

2.216.734

12.844

19.213.589

11,06

10,69

Pakistan

1.437

2.598.364

14.297

26.592.105

12,27

2,85

Trung Quốc

1.145

1.220.642

11.117

13.046.259

68,14

51,54

Hoa Kỳ

525

564.537

3.502

3.808.704

46,24

38,34

Đức

405

755.201

2.794

4.365.621

21,62

22,37

Tiểu VQ Ảrập Thống nhất

387

790.815

2.221

4.249.749

4,88

2,19

Ba Lan

217

289.840

2.157

2.436.667

-19,03

-0,96

Ấn Độ

127

146.694

914

1.311.300

-13,01

-32,11

A rập Xếut

100

234.040

2.032

4.709.990

-83,05

-83,40

Philippin

49

128.607

320

823.633

*

*

Việt Nam là một trong năm quốc gia xuất khẩu chè lớn nhất thế giới. Diện tích trồng chè, tổng sản lượng và lượng chè xuất khẩu qua các năm không ngừng tăng lên. Cây chè trở thành cây chủ lực trong xóa đói giảm nghèo.

Tại Hội thảo Quốc tế chè Thái Nguyên-Việt Nam mới được tổ chức gần đây, các doanh nghiệp trong và ngoài nước đã tham gia ký kết hợp tác đầu tư, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm chè.
Hội thảo đã đưa ra cách thức hợp tác nghiên cứu và định hướng phát triển cây chè, từ đó xây dựng thương hiệu, thị trường cho ngành chè Việt Nam và ngành chè Thái Nguyên hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng. Đây là một trong 7 hoạt động chính tại Liên hoan Trà quốc tế lần thứ nhất - Thái Nguyên, Việt Nam 2011.

Chất lượng chè búp tươi của một số tỉnh trong nước chưa đáp ứng được yêu cầu để tạo được sản phẩm chè chất lượng cao, đủ năng lực cạnh tranh và hội nhập, tiến độ trồng mới và cải tạo thay thế diện tích chè cũ bằng các giống mới còn chậm, chất lượng một số nương chè chưa đạt yêu cầu kỹ thuật đề ra, nhiều cơ sở chế biến chè chưa được đầu tư theo hướng hiện đại, việc xây dựng thương hiệu cho sản phẩm chè còn hạn chế...

Toàn tỉnh Thái Nguyên hiện có gần 18.000 ha chè, năng suất chè búp tươi bình quân đạt gần 100 tạ/ha, sản lượng gần 200.000 tấn. Thái Nguyên cũng đang triển khai thực hiện quy hoạch vùng sản xuất chè an toàn trên địa bàn toàn tỉnh, xây dụng những vùng sản xuất chè nguyên liệu an toàn theo hướng hữu cơ, hạn chế sử dụng phân bón vô cơ, hóa chất trừ sâu.
Tuy nhiên, việc chế biến chè ở Thái Nguyên chủ yếu vẫn theo phương pháp thủ công, truyền thống. Tiêu thụ chè chủ yếu là thị trường nội địa, lượng chè xuất khẩu còn chiếm tỷ lệ thấp, giá trị xuất khẩu không cao, thị trường xuất khẩu chủ yếu là Trung Quốc, Anh, Pakistan, Nga, Đài Loan...

Trong khi đó, cả nước có gần 132.000 ha chè, sản lượng trên 165 ngàn tấn chè khô, xuất khẩu đạt trên 133,1 triệu USD/năm, giải quyết việc làm cho 400.000 hộ sản xuất của 35 tỉnh trong cả nước. Sản xuất chè Việt Nam có nhiều lợi thế về nguồn giống, đất đai khí hậu, mô hình đa dạng.
Nhiều vùng chè chất lượng cao như Tân Cương (Thái Nguyên), Mộc Châu (Sơn La), Bảo Lộc (Lâm Đồng)... chất lượng tốt có thể chế biến sản phẩm đa dạng như chè vàng, Phổ nhĩ, chè hữu cơ giá trị cao.

Tuy năng suất chè Việt Nam đã đạt mức bình quân của thế giới, nhưng giá bán thấp chỉ bằng 60 - 70% thế giới, nguyên nhân chủ yếu do sản phẩm chè Việt Nam còn nghèo nàn về chủng loại, chất lượng và mẫu mã chưa hấp dẫn nên sức cạnh tranh thấp, giữa chế biến và sản xuất nguyên liệu chưa gắn kết với nhau, đặc biệt nguyên liệu búp chè chưa đáp ứng tiêu chuẩn an toàn cho chế biến chè chất lượng cao.

Bên cạnh những thành tựu đạt được, ngành chè nước ta vẫn còn nhiều khó khăn thách thức cùng với những hạn chế yếu kém cần quan tâm khắc phục. Trong đó, nổi lên là việc áp dụng kỹ thuật tiên tiến trong sản xuất và chế biến chè còn chậm. Năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của sản phẩm chưa cao, chưa có nhiều thương hiệu chè nổi tiếng.

Nguồn: Vinanet