Virit Viseshsinth, người đứng đầu Văn phòng Hội đồng Mía và Đường Thái Lan (OCSB), cho biết sản lượng đường của nước này đã giảm 20,37% trong niên vụ 2023/24 xuống còn 8,8 triệu tấn.
Thái Lan là quốc gia xuất khẩu đường lớn thứ hai thế giới. Nước này dự kiến sẽ sản xuất 10,39 triệu tấn trong niên vụ tới, tăng 18% so với niên vụ hiện tại. Lượng tiêu thụ trong nước ở mức khoảng 2,5 triệu tấn và xuất khẩu phần còn lại.
Brazil là quốc gia sản xuất và xuất khẩu đường lớn nhất thế giới. Cơ quan nghiên cứu toàn cầu thuộc Ngân hàng Bank of America (BofA Global Research) cho biết, sản lượng mía nghiền tại Brazil thấp hơn kỳ vọng, đồng thời cũng có rủi ro đối với khối lượng mía nghiền trong niên vụ 2025/26, do thời tiểt khô hạn và các vụ cháy rừng xảy ra nghiêm trọng ở tiểu bang Sao Paulo.
Các đám cháy dữ dội đã thiêu rụi các cánh đồng sản xuất khoảng 1,7 triệu tấn mía của Tereos. Pierre Santoul, Giám đốc điều hành Tereos tại Brazil lưu ý rằng, những ảnh hưởng này sẽ kéo dài sang tới mùa vụ 2025/26 tiếp theo. Cùng với thời tiết khô hạn kéo dài có thể khiến mùa vụ năm sau trở nên tồi tệ hơn. Các vụ cháy có thể ảnh hưởng đến chất lượng đường trong mía của mùa vụ hiện tại, do đó, có thể sẽ ít mía được phẩn bổ để sản xuất đường hơn so với dự kiến trước đây.
BofA dự báo, cán cân đường toàn cầu sẽ thặng dư nhỏ ở mức 650.000 tấn, dẫn đến tỷ lệ dự trữ/sử dụng là 54,1%.
Theo BofA, nếu Ấn Độ tiếp tục kế hoạch chuyển 3-4 triệu tấn đường sang sản xuất ethanol, cán cân cung toàn cầu sẽ chuyển sang thâm hụt khoảng 3 triệu tấn. Vụ thu hoạch mía giảm khiến BofA cũng kỳ vọng giá ethanol sẽ tăng trên thị trường Brazil.
Cơ quan cung ứng lương thực quốc gia Brazil (Conab) dự báo, sản lượng cà phê tại quốc gia này đã giảm so với dự báo ban đầu, do thời tiết bất lợi, ảnh hưởng đến các giai đoạn phát triển của cây trồng.
Vụ mùa cà phê của Brazil năm nay được Conab ước tính ở mức 54,79 triệu bao (loại 60kg), giảm 0,5% so với vụ trước và thấp hơn nhiều so với mức 58,81 triệu bao mà cơ quan này ước tính trong dự báo hồi tháng 5.
Trong đó, sản lượng arabica được ước tính 39,59 triệu bao, giảm so với mức 42,11 triệu bao dự kiến trước đó, nhưng vẫn tăng 1,7% so với niên vụ trước, do diện tích trồng tăng theo năm. Còn sản lượng robusta được dự báo ở mức 15,2 triệu bao, thấp hơn mức 16,71 triệu bao ước tính hồi tháng 5 và giảm 6% so với niên vụ trước.

Phiên hôm nay (24/9), giá đường thô SBc1 kỳ hạn tháng 10/2024 chốt mức 22,55 US cent/lb, giảm 0,5% so với phiên trước, sau khi đạt mức cao nhất 7 tháng ở 23,17 US cent/lb. Giá đường trắng LSUc1 giao cùng kỳ hạn hầu như không thay đổi ở mức 584,5 USD/tấn.

Giá đường thô kỳ hạn tháng 10/2024 trên sàn ICE ngày 24/9

(Đvt: US cent/lb)

Bảng chi tiết giá đường thô các kỳ hạn trên sàn ICE ngày 24/9

(Đvt: US cent/lb)

Kỳ hạn

Giá mở cửa

Giá cao

Giá thấp

Giá mới nhất

Giá ngày hôm trước

Tháng 10/24

22,41

23,17

22,28

22,55

22,66

Tháng 3/25

22,50

23,12

22,37

22,61

22,74

Tháng 5/25

20,90

21,37

20,81

21,11

21,10

Tháng 7/25

19,95

20,27

19,83

20,12

20,02

Tháng 10/25

19,61

19,92

19,55

19,80

19,68

Tháng 3/26

19,60

19,90

19,56

19,79

19,68

Tháng 5/26

18,50

18,70

18,47

18,59

18,51

Tháng 7/26

17,92

18,11

17,88

17,96

17,90

Tháng 10/26

17,81

17,96

17,75

17,80

17,77

Tháng 3/27

18,10

18,10

18,00

18,05

18,03

Tháng 5/27

17,70

17,71

17,62

17,66

17,65

Nguồn: Vinanet/VITIC/Reuters